-
Chương trình được tài trợ bởi:
-
Tài trợ phụ bởi
-
lần trước chúng ta đã tranh luận
-
về trường hợp vụ Nữ hoàng kiện Dudley và Stephens
-
vụ đắm tàu, vụ ăn thịt người trên biển
-
và với những lập luận về
-
vụ đắm tàu,
-
những lập luận ủng hộ và chống lại những suy nghĩ của Dudley và Stephens,
-
hãy quay trở lại với
-
vấn đề triết học
-
triết học vị lợi của Jeremy Bentham
-
Bentham sinh ra ở Anh năm 1748,
-
12 tuổi ông vào học Oxford, 15 tuổi ông học trường luật.
-
ông được nhận vào đoàn luật sư năm 19 tuổi,
nhưng anh ta chưa bao giờ hành nghề luật sư,
-
thay vào đó, ông dâng trọn đời mình
-
cho Luật học và
-
Triết học đạo đức.
-
lần trước chúng ta đã bắt đầu xem xét một phiên bản
về thuyết vị lợi của Bentham
-
ý tưởng chính
-
đơn giản được phát biểu như thế này,
-
nguyên tắc tối cao của đạo đức,
-
cho dù là đạo đức cá nhân hay đạo đức chính trị
-
Đều là
-
tối đa hóa
-
phúc lợi chung
-
hay hạnh phúc của tập thể,
-
hay sự cân bằng tổng thể giữa
niềm vui và nỗi thống khổ
-
Nói cách khác là
-
tối đa hóa
-
tính có ích
-
Bentham đưa ra nguyên tắc này bằng dòng lập luận rằng,
-
tất cả chúng ta đều bị chi phối bởi nỗi đau và niềm vui
-
chúng là những bậc thầy tối cao của chúng ta,
và do vậy bất kỳ hệ thống đạo đức nào cũng phải tính đến chúng.
-
Tính như thế nào là tốt nhất?
-
Bằng cách tối đa hóa
-
và điều này dẫn đến nguyên tắc
-
rằng lợi ích lớn nhất cho nhiều người nhất
-
Vậy chính xác chúng ta nên tối đã hóa tiện ích gì?
-
Bentham nói với chúng ta
-
đó là hạnh phúc
-
hay chính xác hơn là tính có ích.
-
tính có ích.
-
Tối đa hóa tiện ích là một nguyên tắc không chỉ cho cá nhân mà còn cho cộng đồng, và
-
Cả đối với các nhà lập pháp,
-
cuối cùng là cho cả mốt cuộc cộng đồng
-
mà Bentham yêu cầu
-
đó là tổng thể các cá nhân bao gồm trong đó,
-
và đó là lý do
-
trong việc quyết định chính sách tốt nhất, trong việc quyết định luật lệ nên như thế nào,
trong việc quyết định điều gì là công bằng,
-
công dân và các nhà lập pháp nên hỏi chính bản thân họ
câu hỏi, rằng nếu chúng ta cộng hết,
-
tất cả những lợi ích của chính sách này,
-
rồi trừ đi
-
tất cả các chi phí,
-
việc đúng nên làm
-
là cái mà
-
tối đa hóa được
-
sự cân bằng
-
giữa hạnh phúc
-
và đau khổ.
-
Đó là ý nghĩa của việc tối đa hóa tiện ích
-
Bây giờ, ngày hôm nay
-
tôi muốn xem
-
liệu các bạn đồng ý hay không đồng ý với điều đó,
-
và suy luận vị lợi này thường diễn ra
dưới cái tên phân tích phí tổn - lợi ích
-
Thường xuyên được sử dụng bởi các công ty
-
và bởi
-
chính phủ
-
Và nó luôn luôn l
-
iên quan đến việc
-
đặt một giá trị - thường là giá trị tiền bạc - để đại diện cho tính có lợi ích
-
Dựa trên chi phí và lợi ích
-
của nhiều đề xuất khác nhau.
-
Mới gần đây, ở Cộng hòa Séc,
-
có một đề xuất tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá
-
Philip Morris,
-
Một công ty thuốc lá,
-
doanh thu khổng lồ
-
Ở Cộng hòa Séc. Họ đã thực hiện
-
một nghiên cứu về phân tích lợi ích - chi phí
-
Của việc hút thuốc lá
-
ở Cộng hòa Séc.
-
Và phân tích lợi ích chi phí của họ
-
Cho thấy
-
rằng
-
chính phủ sẽ có lợi
-
bằng việc
-
có công dân Séc hút thuốc lá.
-
Bây giờ, hãy xem xem chính phủ đạt được lợi ích như thế nào?
-
Đúng là việc này có những tác động tiêu cực
-
cho tài chính công của chính phủ Séc
-
bởi vì có sự gia tăng chi phí chăm sóc sức khỏe
cho những người mắc các bệnh liên quan
-
đến hút thuốc
-
Mặc khác, những bệnh tật này lại tạo ra những tác động tích cực
-
và tất cả
-
đã được cộng dồn lại
-
ở phái bên kia sổ cái
-
những tác động tích cực bao gồm, chủ yếu là
các nguồn thu thuế khác nhau mà chính phủ
-
thu được từ doanh số bán các sản phẩm thuốc lá,
nhưng còn gồm cả khoản tiết kiệm được
-
từ chi phí chăm sóc sức khỏe chính phủ không phải chi trả
khi người ta chết sớm
-
tiết kiệm lương hưu,
bạn không phải trả lương hưu trong thời gian dài, và cả tiết kiệm được
-
tiết kiệm
-
chi phí nhà ở cho người già.
-
Và khi tất cả các chi phí và lợi ích được cộng dồn lại
-
nghiên cứu của Philip Morris
-
cho thấy rằng
-
tài chính công ở Cộng hòa Séc có một khoản thu ròng
-
147 triệu đô la và còn tiết kiệm được
-
và tiết kiệm được
-
chi phí nhà ở, chăm sóc sức khỏe và lương hưu.
-
Chính phủ được hưởng khoản tiết kiệm hơn 1.200 đô la
-
khi mỗi người chết sớm vì hút thuốc.
-
phân tích chi phí - lợi ích,
-
ngay bây giờ, trong số những bạn ủng hộ thuyết vị lợi
có thể nghĩ rằng đây là một cuộc kiểm tra không công bằng.
-
khảo nghiệm của Philip Morris
-
đã bị báo chí chỉ trích
và họ đã phải xin lỗi vì phép tính
-
vô nhân đạo này
-
bạn có thể nói rằng
-
điều thiếu sót ở đây là thứ mà
thuyết vị lợi có thể dễ dàng kết nối lại với nhau
-
chủ yếu là
-
giá trị đối với con người và gia đình của những người đã qua đời
-
vì ung thư phổi.
-
Thế còn giá trị của mạng sống thì sao?
-
Một số phân tích lợi ích - chi phí kết hợp
-
cả thước đo
-
giá trị cuộc sống.
-
Một trong những vụ nổi tiếng nhất trong số đó
liên quan đến vụ xe Ford Pinto
-
Các bạn đã đọc về vụ đó không? Trở lại vào những năm 1970, chắc các bạn vẫn nhớ
-
mẫu xe Ford Pinto, đó là một loại xe hơi?
-
Có ai còn nhớ không?
-
đó là một mẫu xe nhỏ, xe ô tô nhỏ, rất phổ biến
-
nhưng có một vấn đề
-
là bình xăng nằm phía sau xe
-
và thực tế trong những vụ va chạm từ phía sau, bình xăng đã phát nổ
-
Và, một số người đã thiệt mạng,
-
một số người bị thương nặng.
-
nạn nhân của những vụ tai nạn này đã kiện hãng Ford ra tòa,
-
và trong phiên tòa, hóa ra
-
Ford đã biết
-
từ rất lâu trước đó
-
về bình xăng dễ bị nổ
-
và đã thực hiện phân tích lợi ích - chi phí
để xác định liệu có đáng
-
để đặt một tấm chắn đặc biệt
-
để bảo vệ bình xăng và ngăn nó phát nổ không.
-
Họ đã làm một phân tích lợi ích - chi phí
-
chi phí cho mỗi phần
-
để tăng độ an toàn
-
của chiếc Pinto,
-
họ đã tính toán ra tầm 11 đô la cho mỗi bộ phận
-
và đây,
-
đây là phân tích - lợi ích chi phí
-
được đưa ra ở phiên xét xử,
-
Mỗi bộ phận 11 đô la
-
cho 12,5 triệu chiếc xe hơi và xe tải
-
nên tổng chi phí
-
là 137 triệu đô la để cải thiện sự an toàn
-
nhưng sau đó họ đã tính toán
-
lợi ích
-
của việc tiêu tất cả số tiền này để có một mẫu xe an toàn hơn
-
và họ đếm được 180 người chết
-
và quy ra giá trị bằng tiền
-
200 nghìn đô la
-
cho mỗi người chết,
-
180 người bị thương
-
nhận 67 nghìn đô la,
-
và tiếp đó là chi phí sửa chữa,
-
thay thế cho 2000 chiếc xe bị phá hủy nếu không có
-
thiết bị an toàn.
-
700 đô la mỗi xe.
-
Như vậy, hóa ra những lợi ích
-
chỉ khoảng 49,5 triệu.
-
Thế nên họ đã
-
không lắp đặt
-
thiết bị an toàn.
-
Không cần phải nói
-
khi bản ghi nhớ
-
về phân tích lợi ích-chi phí của Công ty Ford Motor
được đưa ra trong buổi xét xử
-
nó khiến bồi thẩm viên kinh hoàng.
-
Và họ đã yêu cầu một khoản phạt khổng lồ
-
Liệu đây có phải là một ví dụ đi ngược lại
với ý tưởng vị lợi khi tính toán
-
vì Ford đã đưa vào phép tính
-
thước đo giá trị của mạng sống?
-
Bây giờ, bạn nào ở đây muốn bảo vệ
-
phân tích lợi - ích chi phí
-
Từ ví dụ phản đề rõ ràng này,
-
có ai muốn biện hộ không?
-
hay bạn nghĩ nó đã hoàn toàn phá hủy
-
phép tính tính vị lợi?
-
Vâng. Tôi nghĩ rằng,
-
một lần nữa họ lại mắc cùng một sai lầm như ở ví dụ trước
khi họ đã gán một giá trị bằng tiền
-
cho sinh mạng con người và một lần nữa họ không tính đến những thứ như
-
đau khổ và mất mát về tình cảm gia đình.
Ý tôi là những gia đình đã bị mất đi nguồn sống
-
nhưng họ cũng mất đi người thân và điều đó
-
còn đáng giá hơn 200 nghìn đô la.
-
Tốt, nhưng chờ đã nào, bạn tên gì?
-
Julie Roto.
-
Vậy nếu là 200 nghìn đô la, Julie,
-
Là một con số quá thấp vì chưa bao gồm sự mất mát của một người thân,
-
và sự mất mát của những năm tháng cuộc đời,
-
Vậy bạn nghĩ con số nào,
-
bạn nghĩ con số bao nhiêu sẽ chính xác hơn?
-
Tôi không tin là mình có thể đưa ra một con số.
Tôi nghĩ rằng kiểu phân tích này không nên áp dụng cho
-
những vấn đề về sinh mạng con người.
-
Tôi nghĩ rằng không thể dung tiền đối với vấn đề này.
-
Vậy họ không chỉ đưa ra một con số quá thấp
-
Julie nói rằng, họ đã sai khi cố gắng áp đặt bất kỳ một con số nào.
-
được rồi, hãy nghe một ý kiến khác. Ai nào?
-
Phải tính thêm cả điều chỉnh do lạm phát nữa
-
được rồi,
-
thế là công bằng.
-
Vậy bây giờ con số sẽ là bao nhiêu?
-
Đấy là 35 năm trước
-
Hai triệu đô la.
-
Bạn đưa ra con số hai triệu đô la.
-
Và bạn tên gì?
-
Voicheck
-
Voicheck nói rằng chúng ta phải tính thêm cả lạm phát,
-
chúng ta nên hào phóng hơn
-
Nếu vậy các bạn có hài lòng xem
đây là cách nghĩ đúng cho câu hỏi này không?
-
Thật không may, tôi đoán là.
-
Cần phải
-
đặt ra một con số ở đâu đó
-
Tôi không chắc sẽ là số nào nhưng tôi đồng ý rằng có thể
-
gán cho mạng người
-
một con số.
-
Được rồi,
-
như vậy Voicheck nói,
-
và ở đây cậu ấy không đồng ý với
-
Julie
-
Julie nói rằng chúng ta không thể gán cho mạng người một con số,
-
để phân tích lợi ích - chi phí,
Voicheck nói rằng chúng ta phải làm như vậy
-
bởi vì bằng cách này hay cách khác, chúng ta phải quyết định
-
những bạn khác nghĩ sao về điều này?
Có ai sẵn sàng để biện hộ rằng
-
phân tích lợi ích - chi phí ở đây
-
Là chính xác và thỏa đáng không?
-
Tôi nghĩ rằng, nếu Ford và các công ty xe hơi khác không sử dụng phân tích lợi ích - chi phí
thì cuối cùng họ sẽ bị phá sản
-
vì họ sẽ chẳng thể có lợi nhuận
-
và hàng triệu người sẽ không có ô tô của hãng này để đi làm,
để có thức ăn trên bàn
-
để nuôi con cái của họ, vì vậy tôi nghĩ rằng nếu
phân tích lợi ích - chi phí không được sử dụng,
-
thì một lợi ích lớn hơn
-
sẽ mất đi
-
trong trường hợp đó. Được rồi, cho tôi hỏi, bạn tên gì?
-
Raul. Raul.
-
Gần đây đã có một nghiên cứu được thực hiện về việc
sử dụng điện thoại di động của tài xế khi đang lái
-
một chiếc ô tô,
-
và có một cuộc tranh luận liệu việc đó có nên
bị cấm hay không
-
và
-
con số là,
-
khoảng hai nghìn người chết
-
vì tai nạn
-
mỗi năm,
-
khi sử dụng điện thoại di động
-
Và phân tích lợi ích - chi phí
được thực hiện bởi trung tâm phân tích rủi ro ở Harvard
-
Cho thấy rằng nếu bạn xem xét các lợi ích
-
của việc sử dụng điện thoại di động
-
và bạn gán cho mạng sống
-
một giá trị, con số hóa ra lại bằng nhau
-
Bởi vì lợi ích kinh tế to lớn của việc cho phép người ta tận dụng thời gian
-
của họ, không lãng phí thời gian, có thể giao dịch và nói chuyện với bạn bè, v.v.
-
trong khi họ đang lái xe.
-
Điều đó không có nghĩa
-
là sẽ sai lầm khi cố gắng đặt những con số trị giá bằng tiền vào những câu hỏi
-
về sinh mạng con người?
-
Tôi nghĩ rằng nếu
-
đa số mọi người
-
cố gắng đạt được tính có ích của một dịch vụ, như sử dụng điện thoại di động, và sự tiện lợi
-
mà điện thoại di động mang lại, một cách tối đa
-
Miễn là
-
sự hy sinh là cần thiết
-
để nó xảy ra.
-
Bạn hoàn toàn là một người theo thuyết vị lợi. Trong.. vâng đúng ạ.
-
được rồi, một câu hỏi cuối cùng cho Raul
-
và tôi đưa ý kiến của Voicheck vào để xem xét,
-
Có nên gán cho
-
mạng sống con người một có số bằng tiền, để quyết định có nên cấm sử dụng điện thoại di động hay không?
-
tôi không muốn phán
-
một cách tùy tiện,
-
tính bừa một con số, ý tôi là ngay lúc này
-
Tôi nghĩ rằng.
-
Bạn muốn được tư vấn.
-
vâng, tôi muốn được nghe lời khuyên.
-
Nhưng đại để là bao nhiêu? Đã có 2300 người chết
-
bạn phải gán một giá trị bằng tiền để biết liệu mình có muốn ngăn ngừa những cái chết đó,
-
bằng cách cấm sử dụng điện thoại di động trong ô tô hay không
-
vậy bạn sẽ ước tính khoảng bao nhiêu?
-
bao nhiêu?
-
Một triệu,
-
hai triệu
-
Hai triệu là con số của Voitech.
-
Đúng không? Vâng có thể là một triệu.
-
Một triệu?
-
Được rồi, tốt lắm, cảm ơn bạn.
-
Vậy nên, có một số tranh cãi ngày nay nổ ra từ những phân tích lợi ích - chi phí, đặc biệt là
-
những vấn đề liên quan đến
-
việc đặt một giá tiền bạc lên mọi thứ, rồi cộng dồn lại.
-
bây giờ tôi muốn chuyển qua
-
sự phản đối của bạn, đối với sự phản đối của bạn rằng không nhất thiết phải phân tích lợi ích chi phí một cách cụ thể,
-
bởi vì nó chỉ là một phiên bản của
-
logic vị lợi trong thực tế ngày nay,
-
nhưng với tổng thể toàn bộ lý thuyết, với ý tưởng
-
rằng điều đúng nên làm,
-
Điều cơ bản của chính sách và pháp luật,
-
là tối đa hóa
-
tính lợi ích.
-
Bao nhiêu bạn không đồng ý?
-
với cách
-
tiếp cận vị lợi
-
đối với luật pháp
-
và với lợi ích chung?
-
Có bao nhiêu người đồng ý với ý tưởng đó?
-
Vậy là, đồng ý nhiều hơn không đồng ý.
-
Vậy hãy lắng nghe ý kiến từ bên phê bình.
-
Vấn đề chính của tôi với điều này là tôi cảm thấy như
-
bạn không thể nói rằng, chỉ vì những người thuộc nhóm thiểu số.
-
Điều họ muốn và cần lại ít giá trị hơn so với người thuộc đa số
-
vì vậy tôi nghĩ có vấn đề với ý tưởng rằng
-
lợi ích tốt nhất cho số đông nhất
-
là ổn, bởi vì
-
vẫn còn những người
-
ở nhóm thiểu số, có vẻ không công bằng với họ cho lắm, khi họ không có tiếng nói theo cách
-
mà họ muốn
-
được rồi, một phản đối thú vị. Bạn lo lắng về
-
tác động đến nhóm thiểu số. Vâng.
-
Nhân tiện, bạn tên gì? Anna.
-
Được rồi, ai phản hồi cho sự lo lắng của Anna về ảnh hưởng đối với nhóm thiểu số nào?
-
Bạn sẽ nói gì với Anna?
-
Cô ấy nói rằng,
-
nhóm thiểu số ít giá trị hơn, tôi không nghĩ đó là trường hợp này, vì giá trị của từng cá nhân trong nhóm thiểu số
-
Bằng với cá nhân trong nhóm đa số. Nhưng chỉ là
-
số động đã vượt trội hơn
-
thiểu số
-
Và ý tôi là, tại một thời điểm nhất định, bạn phải quyết định.
-
Và tôi thấy đáng tiếc cho nhóm thiểu số nhưng
-
đôi khi,
-
vì đại cuộc,
-
vì lợi ích lớn hơn. Phải vì lợi ích lớn hơn.
Anna, bạn thấy sao? Bạn tên gì? Youngda.
-
Bạn muốn nói gì với Youngda không?
-
Youngda nói rằng bạn chỉ cần cộng dồn sở thích của mọi người,
-
và như vậy cũng đã cân nhắc cả sở thích
của những người thuộc nhóm thiểu số.
-
Bạn có thể cho một ví dụ về việc khiến bạn lo lắng, khi bạn nói rằng bạn lo lắng
-
rằng thuyết vị lợi vi phạm
-
Mối quan tâm hay sự tôn trọng đối với quyền lợi của nhóm thiểu số?
-
bạn có thể đưa ra một ví dụ không.
-
Được rồi, như bất kỳ ví dụ nào mà chúng ta đã nói đến,
như vụ đắm tàu,
-
Tôi nghĩ rằng
-
cậu bé bị ăn thịt
-
vẫn có
-
quyền được sống như những người khác,... và
-
chỉ vì
-
anh ta là
-
thiểu số trong tình huống đó, người
-
có lẽ có ít cơ hội sống tiếp hơn,
-
không có nghĩa là
-
những người khác nghiễm nhiên có quyền ăn thịt anh ta
-
chỉ vì
-
nó sẽ mang lại
-
cơ hội sống cho nhiều người hơn.
-
Như vậy là, có thể có một số quyền
-
Thuộc sở hữu của các cá nhân
-
trong nhóm thiểu số không nên bị đánh đổi
-
Vì mục tiêu lợi ích?
-
?
-
Đúng không Anna?
-
Bây giờ đây sẽ là một bài kiểm tra dành cho bạn,
-
trở lại La Mã cổ đại
-
Họ đã ném những người Cơ đốc giáo cho sư tử trong các đấu trường thể thao.
-
Nếu bạn nghĩ, về phương thức tính toán vị lợi, nó sẽ xảy ra như thế nào?
-
Vâng, Những người Cơ đốc giáo bị ném cho sư tử phải chịu đựng nỗi đau tột cùng,
-
nhưng hãy nhìn vào niềm vui sướng tập thể của đám đông những người La Mã.
-
Youngda. Vâng,
-
lúc đó,
-
tôi không nghĩ
-
Như là trong thời hiện đại, để đánh giá, à… đưa ra một con số nhất định đối với hạnh phúc được tạo ra cho những người chứng kiến
-
Tôi không nghĩ
-
bất kỳ
-
nhà làm luật nào sẽ nói rằng
-
Nỗi đau của một người, sự đau khổ của một người là nhiều hơn hẳn
-
khi so với hạnh phúc đạt được
-
Không nhưng bạn phải thừa nhận rằng nếu có đủ số đông người La Mã cuồng nhiệt với hạnh phúc,
-
nó thậm chí còn lớn hơn nỗi đau tột cùng của
-
một số ít người Cơ đốc giáo bị ném cho sư tử.
-
Như vậy, chúng ta có hai lý luận khác nhau phản đối chủ nghĩa vị lợi.
-
Một là cân nhắc rằng
-
liệu chủ nghĩa vị lợi
-
có tôn trọng đầy đủ
-
các quyền cá nhân
-
hoặc quyền thiểu số hay không?
-
Và phản đối khác thì liên quan
-
đến toàn bộ ý tưởng
-
Về việc cộng dồn
-
tính có ích
-
của những sở thích
-
hoặc giá trị
-
Liệu có thể tổng hợp tất cả các giá trị
-
để quy chúng
-
thành các khái niệm tính bằng tiền được không?
-
Những năm 1930
-
có một
-
nhà tâm lý học
-
đã cố gắng
-
giải quyết
-
câu hỏi thứ hai. Ông đã cố gắng chứng minh
-
những gì chủ nghĩa vị lợi giả định,
-
rằng có thể
-
quy đổi
-
tất cả hàng hóa, tất cả các giá trị, tất cả các mối quan tâm của con người
-
Về một thước đo thống nhất, duy nhất.
-
Và ông đã làm điều đó
-
bằng cách tiến hành một cuộc khảo sát
-
về những công thức sơ khởi về niềm tin, đó là vào những năm 1930.
-
Và ông ta hỏi họ, ông ta đưa cho họ một danh sách
những trải nghiệm không vui vẻ
-
và ông ta hỏi xem họ sẽ muốn được trả bao nhiêu để trải qua
-
những trải nghiệm sau đây, và ông theo dõi
-
Ví dụ,
-
bạn muốn được trả bao nhiêu để bị nhổ một chiếc răng cửa hàm trên
-
hoặc bạn muốn được trả bao nhiêu để cắt đứt một ngón chân cái?
-
hoặc ăn tươi một con giun đất đang sống, dài sáu inch
-
hoặc sống phần đời còn lại của bạn trong một trang trại ở Kansas
-
hoặc bóp cổ một con mèo hoang bằng tay không
-
Bây giờ, bạn nghĩ sao?
-
Bạn cho rằng món nào đắt nhất trong danh sách đó
-
Kansas đúng không?
-
Đúng rồi, đó là Kansas
-
Với lựa chọn Kansas,
-
mọi người nói rằng
-
họ phải được trả 300 nghìn đô la.
-
Theo bạn…
-
Theo bạn thì cái gì là đắt tiếp theo đó?
-
không phải con mèo,
-
không phải là răng hàm
-
không phải ngón chân cái!
-
giun đất!
-
Đa số nói rằng, bạn phải trả cho họ 100 nghìn đô la
-
để họ ăn giun đất
-
bạn nghĩ cái gì là rẻ nhất?
-
không phải con mèo
-
Mà là răng hàm.
-
Trong thời kỳ suy thoái, mọi người sẵn sàng nhổ răng
-
để chỉ đổi lấy 4.500 đô la
-
Và bây giờ
-
là những gì mà Thorndike
-
kết luận được từ nghiên cứu của mình.
-
Bất kỳ mong muốn hay sự thỏa mãn nào tồn tại, tồn tại
-
Tồn tại thành một lượng nào đó và do đó có thể đo lường được.
-
Cuộc sống của một con chó
-
hoặc một con mèo
-
hoặc một con gà, bao hàm
-
những khao khát,
-
ham muốn
-
và sự hài lòng của nó
-
Vậy nên, cuộc sống
-
của con người cũng vậy.
-
Mặc dù những khao khát và ham muốn ở họ
-
là phức tạp hơn.
-
Nhưng còn nghiên cứu của Thorndike
-
thì sao?
-
Liệu nó có hỗ trợ
-
quan điểm của Bentham,
-
rằng tất cả
-
tất cả các giá trị có thể được quy đổi thông qua một đơn vị đo lường giá trị chuẩn, thống nhất, duy nhất
-
hay đặc tính khác thường của những đối tượng khác nhau trong danh sách này
-
Lại gợi ra những kết luận ngược lại.
-
Có thể là, liệu chúng ta đang nói về cuộc sống
-
hoặc Kansas
-
hoặc con giun đất.
-
Có thể
-
những thứ chúng ta coi trọng
-
và yêu quý
-
không thể được tóm gọn
-
theo một đơn vị đo lường giá trị chuẩn, thống nhất, duy nhất.
-
Và nếu họ không thể làm được như vậy
-
thì kết cục là gì
-
đối với thuyết vị lợi
-
của đạo đức?
-
Đó là câu hỏi chúng ta sẽ tiếp tục vào lần tới
-
Được rồi bây giờ chúng ta hãy tham gia một phần khác
-
của cuộc thăm dò,
-
đó là
-
trải nghiệm hay niềm vui nào
-
có giá trị nhất?
-
Bao nhiêu người nói là
-
Shakespeare?
-
bao nhiêu người nói rằng đó là chương trình “Fear Factor”
-
không, bạn nghiêm túc đấy chứ?
-
thật à?
-
lần trước
-
chúng ta đã bắt đầu xem xét một số phản đối
-
với phiên bản thuyết vị lợi
-
của Jeremy Bentham
-
mọi người đưa ra hai lập luận phản đối trong cuộc thảo luận
-
mà chúng ta đã tiến hành
-
đầu tiên
-
là sự phản đối, tuyên bố rằng
-
chủ nghĩa vị lợi,
-
Chính bản thân nó,
-
bằng việc quan tâm đến vấn đề lợi ích lớn nhất cho nhiều nhất
-
Đã không tôn trọng đầy đủ
-
các quyền cá nhân.
-
hôm nay chúng ta có những cuộc tranh luận
-
về việc tra tấn
-
và khủng bố
-
giả sử
-
một kẻ bị nghi ngờ khủng bố đã bị bắt vào ngày 10/9
-
và bạn có lý do để tin
-
rằng nghi phạm
-
có thông tin quan trọng về một cuộc tấn công khủng bố sắp xảy ra, sẽ giết chết
-
hơn ba nghìn người
-
và bạn không thể lấy được thông tin.
-
Liệu bạn sẽ
-
tra tấn
-
nghi phạm
-
để lấy thông tin
-
hay
-
bạn sẽ nói không,
-
có những bổn phận về đạo đức tuyệt đối
cần phải tôn trọng quyền của mỗi cá nhân
-
theo cách như vậy, chúng ta quay lại với những câu hỏi mà chúng ta đã bắt đầu
-
về xe điện và cấy ghép nội tạng. Vậy thì đó là vấn đề đầu tiên
-
và bạn nhớ rằng chúng ta đã xem xét một số ví dụ về phân tích lợi ích - chi phí
-
nhưng nhiều người không hài lòng với phân tích lợi ích - chi phí
-
khi gán cho mạng sống con người một giá trị bằng tiền
-
và do đó nó dẫn chúng ta đến
-
lập luận phản đối thứ hai,
-
nó nghi vấn liệu có thể quy đổi tất cả các giá trị
-
theo một một đơn vị đo lường giá trị chuẩn, thống nhất, duy nhất?
-
Hay nói cách khác, nó nghi ngờ liệu tất cả các giá trị có thể đo lường được không?
-
để tôi cho các bạn một ví dụ khác,
-
một ví dụ
-
một trải nghiệm, đây thực sự là một câu chuyện có thật, xuất phát từ trải nghiệm cá nhân của tôi
-
Làm dấy lên một câu hỏi, ít nhất là liệu rằng tất cả
các giá trị có thể được quy đổi mà không làm
-
mất đi
-
yếu tố vị lợi của chúng không
-
vài năm trước
-
khi còn là một nghiên cứu sinh, tôi đã ở Oxford ở Anh.
Họ có trường nam sinh và nữ sinh riêng
-
Các trường đại học chưa cho học chung với nhau.
-
Và các trường đại học nữ sinh có quy định
-
phản đối
-
Không cho phép khách nam ở qua đêm.
-
Vào những năm 1970
-
Những nguyên tắc hiếm khi được thực thi và dễ dàng bị vi phạm,
-
hoặc tôi nghe nói thế,
-
vào cuối những năm 1970, khi tôi ở đó,
áp lực nới lỏng các nguyên tắc này ngày càng gia tăng và nó trở thành
-
chủ đề tranh luận giữa các giảng viên tại Đại học St. Anne
-
một trong những trường đại học dành cho nữ.
-
Những nữ giảng viên lớn tuổi trong trường
-
là những người theo chủ nghĩa truyền thống, họ phản đối sự thay đổi
-
trên cơ sở đạo đức thông thường
-
nhưng thời thế đã thay đổi,
-
và họ cảm thấy xấu hổ
-
khi đưa ra lý do thực sự cho sự phản đối của mình
-
Và, do đó họ đã chuyển nghĩa các lập luận của họ
-
thành các ngôn ngữ của thuyết vị lợi
-
họ lập luận rằng nếu nam giới ở lại qua đêm,
-
chi phí cho trường đại học sẽ tăng lên.
-
Hẳn các bạn thắc mắc là tăng thế nào.
-
Vâng, họ nói rằng những người này họ sẽ muốn dùng nhà tắm
rồi sẽ dùng hết nước nóng
-
hơn nữa, họ lập luận rằng
-
họ sẽ phải thay đệm thường xuyên hơn
-
các nhà cải cách
-
giải tỏa những lập luận này bằng cách áp dụng thỏa hiệp như sau
-
mỗi người nữ, mỗi tuần
-
có thể có tối đa ba khách nam qua đêm
-
họ không nói thêm liệu là cùng một người hay phải ba người khác nhau,
-
miễn là
-
và đây là thỏa hiệp được đưa ra.
-
Với điều kiện khách ở lại
-
trả 50 xu để trang trải chi phí của trường đại học
-
ngày hôm sau,
-
tiêu đề của tờ báo phát hành toàn quốc giật tít
“Nữ sinh St. Anne, 50 pence một đêm"
-
một minh họa khác
-
...
-
cho thấy khó khăn trong việc quy đổi
-
tất cả các giá trị,
-
trong trường hợp này là một quan điểm nhất định
-
về đạo đức thành ngôn ngữ của thuyết vị lợi
-
Vậy thì, tất cả những điều này để minh họa
-
phản đối thứ hai
-
đối với thuyết vị lợi,
ít nhất là một phần của sự phản đối đó
-
là câu hỏi,
-
thuyết vị lợi
-
có đúng không khi cho rằng
-
rằng chúng ta có thể
-
công nhận tính đồng nhất của
-
giá trị, tính có thể đo lường được của các giá trị
và quy đổi tất cả các cân nhắc đạo đức
-
thành
-
đồng đô la
-
hoặc tiền bạc.
-
Nhưng vẫn còn một khía cạnh thứ hai
-
của mối lo lắng trong việc cộng dồn các giá trị và những sở thích
-
tại sao chúng ta nên
-
cân đong đo đếm
-
tất cả các sở thích
-
Của mọi người,
-
mà không đánh giá xem sở thích của họ là sở thích tốt hay xấu
-
chúng ta không nên phân biệt
-
giữa
-
những niềm vui
-
cao quý
-
và niềm vui thấp kém.
-
Bây giờ, đây là một phần của yêu cầu
-
không đưa ra bất kỳ sự phân biệt định tính nào về giá trị của sở thích của con người, một phần của
-
Yêu cầu
-
là không phán xét và bình đẳng. Người theo chủ nghĩa quân bình
-
và thuyết vị lợi Bentham nói rằng,
-
sở thích của mọi người đều được tính đến
-
và chúng được tính đến bất kể người ta muốn gì,
-
bất kể chúng khiến những người khác nhau
-
hạnh phúc. Đối với Bentham,
-
tất cả những điều đó,
-
bạn nhớ lại đi,
-
là cường độ và thời lượng
-
của một niềm vui hay nỗi đau.
-
Cái gọi là những niềm vui cao quý hay tao nhã hơn,
theo Bentham đơn giản là những thứ
-
tạo ra niềm vui
-
mạnh mẽ hơn,
-
lâu dài hơn
-
có một thành ngữ nổi tiếng để diễn đạt ý tưởng này,
-
“số lượng niềm vui của thơ ca
-
cũng chỉ bằng với
-
trò chơi đinh ghim”.
-
Trò đinh ghim là gì?
-
Đó là một trò chơi của trẻ con giống như giật đinh ghim, trò này cũng hay như thơ ca.
-
Bentham đã nói như vậy.
-
Và ẩn sau ý tưởng này,
-
tôi nghĩ
-
là tuyên bố
-
một cách trực giác
-
rằng đó cơ sở giả định
-
để phán xét
-
niềm vui của ai
-
về bản chất là cao hơn,
-
hoặc giá trị hơn, hoặc tốt hơn
-
và có điều gì đó hấp dẫn trong việc
-
từ chối đối với sự phán xét này. Sau khi thấy một số người thích Mozart,
-
những người khác thích
-
Madonna,
-
số khác thích múa ba lê
-
số khác lại thích chơi
-
bowling.
-
Ai sẽ nói
-
một người theo thuyết Bentham có thể tranh luận,
ai nói thú vui nào trong những thú vui này
-
thú vui của ai
-
giá trị hơn,
-
cao quý hơn
-
và cao sang hơn
-
những thú vui khác?
-
Nhưng, điều này có đúng không?
-
từ chối đưa ra những phân biệt định tính
-
chúng ta có thể
-
hoàn toàn loại bỏ quan điểm
-
rằng một số thứ nhất định mà chúng ta thích, là
-
tốt hơn hoặc giá trí
-
hơn những thứ người khác thích.
-
Thử suy nghĩ lại trường hợp của những người trong đấu trường La Mã,
một điều làm phiền lòng mọi người rằng
-
thực hiện điều đó
-
dường như là vi phạm các quyền
-
của người Cơ đốc giáo
-
một cách khác để phản đối điều đang diễn ra ở đó
-
là niềm vui mà những người La Mã có được
-
trong quang cảnh đẫm máu đó.
-
Vậy thì, niềm vui đó
-
Cơ bản mà nói, có nên là
-
một kiểu
-
niềm vui hạ cấp đồi bại, nếu điều đó thậm chí
-
được thẩm định hoặc cân đo khi quyết định
-
lợi ích chung là gì?
-
Vậy thì, đó là những phản đối đối với thuyết vị lợi của Bentham.
-
Và bây giờ chúng ta chuyển qua nói về những người đã cố gắng
-
đáp lại những phản đối như vậy.
-
Một người theo thuyết vị lợi sau đó
-
John Stuart Mill
-
Vậy thì, điều chúng ta cần
-
xem xét bây giờ
-
là liệu John Stuart Mill có câu trả lời thuyết phục
-
cho những phản đối về thuyết vị lợi này không?
-
John Stuart Mill
-
sinh năm 1806,
-
cha ông là James Mill
-
là học trò của Bentham.
-
Và James Mills quyết tâm cho con trai mình
-
John Stuart Mill có được một nền giáo dục kiểu mẫu.
-
Ông là một thần đồng
-
John Stuart Mill
-
biết tiếng Latin, xin lỗi, tiếng Hy Lạp năm lên ba, tiếng Latinh năm lên tám
-
và năm lên 10,
-
ông đã viết lịch sử Pháp luật La Mã.
-
Ở tuổi 20,
-
ông bị suy nhược thần kinh
-
điều này khiến ông ấy rơi vào tình trạng trầm cảm trong suốt năm năm.
-
Nhưng rồi ở tuổi 25, điều đã giúp ông ấy thoát khỏi tình trạng trầm cảm đó
-
là việc gặp Harriet Taylor,
-
không nghi ngờ bà ấy đã kết hôn với ông ấy,
họ sống hạnh phúc mãi mãi về sau
-
và dưới ảnh hưởng
-
của bà,
-
John Stuart Mill đã cố gắng nhân hóa
-
thuyết vị lợi.
-
Điều Mill cố gắng làm là muốn xem
-
liệu tính toán vị lợi có thể
-
được mở rộng
-
và hiệu chỉnh hay không?
-
để đáp ứng
-
các mối quan tâm về vấn đề nhân đạo
-
như mối quan tâm về tôn trọng quyền cá nhân.
-
Và cũng để giải quyết sự khác biệt giữa
-
thú vui cao quý và thấp hèn
-
Năm 1859 Mill viết một cuốn sách nổi tiếng về tự do
-
điểm chính trong đó là tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi cá nhân
-
và của nhóm thiểu số
-
vào năm 1861
-
lúc cuối đời,
-
ông đã viết cuốn sách mà chúng ta đọc trong môn học này
-
Thuyết vị lợi.
-
Nó làm rõ
-
rằng tính có lợi là tiêu chuẩn đạo đức duy nhất
-
theo quan điểm của ông.
-
Vì vậy ông không thách thức
-
giả thuyết của Bentham,
-
ông đang khẳng định nó.
-
ông nói rất rõ ràng rằng, bằng chứng duy nhất,
-
có thể tạo ra bất cứ điều gì đáng mong muốn
là điều mà người ta thực sự
-
mong muốn nó.
-
Vì vậy, ông vẫn giữ quan điểm rằng những mong muốn thực sự
theo kinh nghiệm thực tế của chúng ta
-
là cơ sở duy nhất
-
Cho các phán xét đạo đức.
-
Nhưng rồi, ở trang tám
-
trang tám
-
cũng trong Chương hai, ông lập luận rằng
người theo thuyết vị lợi có thể phân biệt
-
thú vui
-
cao quý với thấp kém.
-
Bây giờ, những bạn đã đọc
-
Sách của Mill rồi hãy cho biết, theo ông,
-
làm thế nào
-
để có thể xác định được sự khác biệt đó?
-
Làm thế nào một người theo thuyết vị lợi có thể
-
phân biệt được về bản chất những thú vui cao quý
-
Với những thú vui ít cao quý hơn,
-
thấp kém hơn, hoặc không có giá trị?
-
Nếu bạn đã thử cả hai, một cách tự nhiên,
-
bạn sẽ luôn thích thú vui cao quý hơn
-
Tốt lắm, đúng vậy. Bạn tên gì nhỉ?
John.
-
Như John đã chỉ ra
-
Mill nói đây là bài kiểm tra,
-
bởi vì chúng ta không thể bước ra ngoài
-
những mong muốn thực sự, sở thích thực sự.
-
Điều đó sẽ
-
vi phạm tiền đề của thuyết vị lợi,
-
bài kiểm tra duy nhất xem
-
liệu
-
niềm vui có cao quý hơn
-
hay thấp kém hơn là xem xem, liệu một người đã trải nghiệm cả hai
-
sẽ thích cái nào hơn.
-
Và ở đây,
-
trong chương hai,
-
chúng ta thấy một đoạn
-
mà Mill đưa ra quan điểm John vừa mô tả
-
“trong hai niềm vui, nếu có một niềm vui nào
mà hầu như tất cả những người trải nghiệm cả hai
-
đều đưa ra một sự ưu tiên quyết định hơn,
-
không xét đến bất kỳ trách nhiệm đạo đức nào để phải thích nó hơn, hay nói cách khác, không phải là tiêu chuẩn bên ngoài,
-
tiêu chuẩn không độc lập,
-
thì đó là niềm vui được mong đợi hơn."
-
Các bạn nghĩ gì về lập luận này.
-
Liệu ...
-
Liệu nó có ổn không?
-
Bao nhiêu người nghĩ rằng nó ổn?
-
Trong cuộc tranh cãi thuyết vị lợi
để phân biệt giữa thú vui cao quý và thấp kém hơn?
-
bao nhiêu người
-
nghĩ rằng nó không ổn?
-
Tôi muốn nghe lý do của các bạn.
-
Nhưng trước khi
-
chúng ta đưa ra lý do
-
hãy làm một thí nghiệm
-
về tuyên bố
-
của Mills.
-
Để thực hiện thí nghiệm này,
-
chúng ta sẽ xem xét ba trích đoạn ngắn
-
của các loại hình
-
giải trí phổ biến
-
đầu tiên là độc thoại Hamlet,
-
sau đó sẽ là hai trải nghiệm khác
-
hãy xem
-
các bạn nghĩ gì.
-
Loài người phải chăng là một tuyệt phẩm của đáng toàn năng.
-
Lý trí cao quý biết bao
-
Tài năng vô song
-
và dáng vẻ đáng ngưỡng mộ đến nhường nào,
-
thật giống một một thiên thần. Hiểu thấu tâm can người khác như thiên thần.
-
Ôi phong vẻ của thế gian,
-
mẫu mực của muôn loài.
-
Và tôi boăn khoăn,
-
người chỉ là kết tinh của cát bụi thôi ư?
-
Người không cố làm tôi vui.
-
Hãy tưởng tượng một thế giới nơi nỗi sợ hãi lớn nhất của bạn trở thành hiện thực.
-
Trong mỗi chương trình, sáu người chơi từ khắp đất nước
chiến đấu với nhau trong ba trò chơi nguy hiểm cực độ
-
Những trò chơi nguy hiểm này được thiết kế để
thử thách người chơi cả về thể chất và tinh thần
-
sáu người chơi, ba trò chơi nguy hiểm, một người chiến thắng.
-
“Fear Factor”.
-
Gia đình Simpsons. Vâng, xin chào "diddly-o peddle to the metal o-philes! Flanders" - từ khi nào anh bắt đầu thích những thứ hay ho vậy?
-
Ôi, tôi chả quan tâm đến tốc độ, nhưng tôi lại thích bánh răng an toàn,
-
nón bảo hiểm, thanh lăn, cờ cảnh báo. Em thích không khí trong lành.
-
và nhìn ngắm những kẻ khốn khó trong nội đồng.
-
Dang Cletus, sao anh lại đỗ xe bên cạnh bố mẹ em?
-
Nào em yêu, giờ đó cũng là bố mẹ anh mà.
-
Tôi thậm chí còn chưa hỏi bạn thích cái nào nhất?
-
Gia đình Simson? Có bao nhiêu người thích Simpson nhất?
-
Có bao nhiêu người thích Shakespeare?
-
Còn “Fear Factor” thì sao?
-
Có bao nhiêu bạn thích “Fear Factor”?
-
Thật sao?
-
Đa số mọi người
-
thích Simpsons
-
nhiều hơn
-
hơn là Shakespeare. Được rồi, bây giờ chúng ta hãy thực hiện
-
một phần khác của cuộc bình chọn, đó là
-
Đâu sẽ là
-
trải nghiệm
-
hay niềm vui cao nhất?
-
Có bao nhiêu người nói
-
Shakespeare?
-
Bao nhiêu bạn nói
-
“Fear Factor”?
-
không, bạn nghiêm túc đấy chứ?
-
Thật sao?
-
được rồi, bạn cứ phát biểu.
-
Tôi thấy
-
đó là trải nghiệm có tính giải trí nhất.
-
Tôi biết, nhưng bạn nghĩ đâu là trải nghiệm giá trị nhất,
cao quý nhất, tôi biết bạn thấy nó
-
giải trí nhất.
-
Nếu thứ gì đó tốt chỉ vì nó giải trí,
thì sẽ có vấn đề gì nếu bạn có một số
-
quan điểm trừu tượng về việc
-
liệu nó có tốt theo cảm nhận của người khác hay không?
-
Được rồi, vậy bạn không quan tâm đến quan điểm
của những người theo thuyết vị lợi,
-
niềm vui của ai được phán xét?
-
Và tại sao chúng ta nên phán xét?
-
ngoài việc chỉ ghi nhận và tổng hợp các sở thích thực tế. Thật công bằng!
-
Bạn tên gì?
-
Nate?
-
Được rồi, thật công bằng. Được rồi, vậy
-
có bao nhiêu người nghĩ rằng Simpson thực sự
-
Không phải là thích mà thực sự là trải nghiệm cao quý
-
cao hơn cả Shakespeare.
-
Được rồi, hãy xem bình chọn cho Shakespeare. Một lần nữa,
-
có bao nhiêu bạn nghĩ rằng Shakespeare cao quý hơn?
-
Được rồi.
-
Tại sao?
-
Lý tưởng là tôi muốn nghe một ai đó.
Ai đó không
-
nghĩ Shakespeare là cao quý nhất
-
nhưng lại
-
thích xem
-
Simsons hơn
-
Vâng, tôi đoán là mình chỉ cần ngồi và xem Simpsons,
nó thú vị bởi những pha pha trò, chúng khiến ta cười, nhưng
-
Đã có người bảo chúng ta rằng Shakespeare là một tác giả vĩ đại,
chúng ta đã được dạy cách để đọc tác phẩm của ông,
-
cách hiểu ông, chúng ta đã được dạy cách
-
học Rembrandt, cách phân tích một bức tranh.
-
Tốt lắm, tên bạn là gì? Aneesha.
-
Aneesha, khi bạn nói ai đó
-
nói với bạn rằng Shakespeare tốt hơn
-
bạn có chấp nhận nó với niềm tin mù quáng không,
bạn đã bình chọn cho Shakespeare cao quý hơn chỉ vì
-
văn hóa nói chobạn điều đó, hay các giáo viên của chúng ta
nói với bạn điều đó, hay chính bạn
-
thực sự đồng ý với chính mình
-
Thưa thầy, với Shakespeare thì không, nhưng trước đó
-
khi thầy lấy ví dụ về Rembrandt
-
Em cảm thấy mình thích đọc truyện tranh hơn là bài phân tích về Rembrandt,
-
bởi vì ai đó đã nói với tôi rằng nó rất hay, thầy biết đấy ạ.
Được rồi, có vẻ như một kiểu là
-
bạn đang đề xuất một loại
-
quy ước và áp lực văn hóa. Chúng ta được chỉ bảo
-
những cuốn sách nào, những tác phẩm nghệ thuật nào là tuyệt vời.
Một ý kiến khác nào?
-
mặc dù tôi thích xem Simpsons hơn,
nhưng trong thời điểm cụ thể này, khi đang học về Công lý,
-
nếu tôi phải dành phần đời còn lại của mình để xem
-
ba video clip khác nhau
-
được trình chiếu.
-
Tôi sẽ không muốn dành
-
phần đời còn lại của mình
-
để xem hai clip sau.
-
Tôi nghĩ rằng tôi sẽ nhận được nhiều niềm vui hơn
-
từ việc
-
mở rộng tâm trí của mình
-
để thưởng thức
-
những thú vui sâu sắc hơn, những suy nghĩ sâu sắc hơn.
-
và cho tôi biết tên của bạn?
-
Joe.
-
Joe, vậy là nếu bạn phải dành phần đời còn lại của mình
-
trong một trang trại ở Kansas
-
chỉ có Shakespeare
-
hoặc các tuyển tập phim Simpsons
-
bạn sẽ thích
-
Shakespeare hơn?
-
Bạn kết luận được gì từ đó?
-
về bài kiểm tra của John Stuart Mill.
-
Nhưng là bài kiểm tra về niềm vui cao quý hơn
-
là liệu rằng những
-
người đã trải nghiệm
-
cả hai có thích nó hơn không.
-
tôi có thể trích dẫn một ví dụ ngắn gọn khác được không?
-
trong sinh học,
-
trong sinh học tế bào thần kinh, năm ngoái chúng tôi đã được kể
về một con chuột được thí nghiệm
-
một bộ phận trung tâm đặc biệt trong não,
-
nơi con chuột có thể kích thích não bộ của nó và tự gây cho nó
niềm vui mãnh liệt một cách liên tục
-
con chuột không ăn, không uống cho đến khi nó chết.
-
Như vậy, rõ ràng con chuột đã trải qua niềm vui mãnh liệt
-
Vậy thì, bây giờ nếu giáo sư hỏi tôi rằng
liệu tôi muốn trải nghiệm niềm vui mãnh liệt
-
hay sống cả đời
-
với niềm vui cao quý, thì tôi sẽ xem
niềm vui mãnh liệt là niềm vui thấp kém, đúng không ạ?
-
bây giờ hãy tận hưởng niềm vui mãnh liệt,
-
vâng chắc chắn tôi sẽ làm vậy
-
nhưng trong suốt cuộc đời, tôi nghĩ …
-
tôi nghĩ rằng
-
số đông ở đây sẽ đồng ý với tôi
-
rằng họ thà làm một con người với niềm vui cao quý
hơn là con chuột đó
-
với niềm vui mãnh liệt
-
trong một khoảng thời gian nhất thời.
-
Vậy thì, bây giờ,
-
để trả lời câu hỏi của giáo sư, đúng vậy, tôi nghĩ
-
điều này chứng minh, hay tôi sẽ không nói là chứng minh.
-
Tôi nghĩ rằng, kết luận
-
đó là lý thuyết của Mill khi phần lớn mọi người được hỏi
-
họ muốn làm gì hơn,
-
họ sẽ trả lời
-
rằng họ thà tham gia vào một thú vui cao quý.
-
Vậy là, bạn nghĩ điều này ủng hộ Mills, rằng ở đây Mills có một số điều có lý?
-
Tôi nghĩ vậy.
-
Được rồi, có ai khác
-
có ai không đồng ý với Joe khi nghĩ rằng thí nghiệm của chúng ta
-
bác bỏ
-
thí nghiệm
-
của Mills,
-
cho thấy rằng đây không phải là một cách thỏa đáng,
-
rằng bạn không thể phân biệt những niềm vui cao quý
-
trong khuôn khổ thuyết vị lợi.
-
Nếu bất cứ điều gì là tốt thì thực sự đó chỉ là bất cứ thứ gì
mà mọi người thích nó hơn. Nó thực sự tương đối
-
và sẽ không có một định nghĩa khách quan nào cả
-
sẽ có một số xã hội nơi mọi người thích Simpsons
-
nhiều hơn
-
bất kỳ ai cũng có thể đề cao Simpsons, nhưng tôi nghĩ cần phải
có giáo dục thì người ta mới đề cao Shakespeare
-
Được rồi, bạn đang nói rằng cần phải có giáo dục mới đề cao
-
những điều cao quý và chân chính
-
Quan điểm của Mill
-
là những niềm vui cao quý đòi hỏi
-
sự dạy dỗ, khả năng thường thức và cả giáo dục.
-
Ông không bàn cãi điều đó
-
nhưng
-
một khi đã được tu dưỡng
-
và giáo dục
-
Con người ta sẽ nhìn thấy
-
không chỉ thấy sự khác biệt giữa những niềm vui
-
thấp kém hay cao quý
-
mà còn thực sự
-
Sẽ thích
-
cái cao quý
-
hơn cái thấp kém.
-
Các bạn sẽ tìm thấy trích đoạn nổi tiếng này của John Stuart Mill
-
“chẳng thà
-
làm một người bất mãn
-
còn hơn làm một con heo thỏa mãn”.
-
chẳng thà làm một Sokrates bất mãn
còn hơn làm một thằng ngốc thỏa mãn.
-
Và nếu kẻ ngốc
-
hay con lợn
-
có ý kiến khác,
-
thì đó là bởi vì chúng chỉ mới
-
biết mỗi một góc của vấn đề”.
-
Như vậy, ở đây các bạn có
-
một nỗ lực
-
để phân biệt
-
Niềm vui cao quý
-
với niềm vui thấp kém.
-
Vậy nên, đi đến một bảo tàng nghệ thuật hay
-
nằm ườn ở nhà, uống bia và dán mắt vào tivi
-
Mill đồng ý rằng, đôi khi chúng ta có thể không chống lại được
-
các cám dỗ
-
để làm điều sau đây ...
-
làm một “củ khoai tây lười biếng trên ghế bành”,
-
Nhưng, ngay cả khi chúng ta làm điều đó
-
vì lười biếng
-
và uể oải,
-
chúng ta vẫn biết
-
rằng niềm vui mà chúng ta có được
-
khi chăm chú ngắm nhìn Rembrandts
-
ở bảo tàng
-
thực sự vẫn cao quý hơn,
-
bởi vì chúng ta đã trải nghiệm cả hai.
-
Và áp lực lớn hơn
-
nhìn chằm chằm vào Rembrandts,
-
vì đòi hỏi những khả năng cao hơn của con người chúng ta.
-
Vậy còn nỗ lực của Mill
-
để đáp lại sự phản đối về quyền cá nhân thì sao?
-
Theo một cách nào đó, ông sử dụng
-
cùng một cách lập luận
-
và điều này xuất hiện ở Chương năm,
-
ông nói “trong khi tôi tranh luận quyền đòi hỏi chính đáng
của bất kỳ lý thuyết nào thiết lập một tiêu chuẩn tưởng tượng
-
cho công lý
-
mà không dựa trên tính có ích,…”
-
nhưng
-
ông vẫn xem xét
-
công lý
-
dựa trên tính có ích là thứ mà ông gọi là phần chính yếu
-
và không thể so sánh được, là phần thiêng liêng và ràng buộc nhất
-
của mọi loại đạo đức.
-
vì vậy công lý là cao hơn.
-
Quyền cá nhân là được ưu tiên
-
nhưng không phải vì
-
những lý do đi chệch khỏi những giả định của thuyết vị lợi.
-
“Công lý là một cái tên
-
cho những yêu cầu đạo đức nhất định,
-
được đánh giá một cách tổng thể
-
Là đứng cao hơn trong thang đo tính có ích cho xã hội,
-
và do đó
-
nó càng
-
có nghĩa vụ tối quan trọng
-
hơn bất kỳ nghĩa vụ nào khác”
-
vì vậy công lý là thiêng liêng, nó được ưu tiên,
được đặc ân, nó không phải là thứ dễ dàng đánh đổi
-
Với những thứ thấp kém hơn.
-
Nhưng lý do
-
sau cùng
-
mà Mills tuyên bố là
-
một người theo thuyết vị lợi lập luận,
-
khi bạn cân nhắc
-
lợi ích lâu dài
-
của nhân loại,
-
của tất cả chúng ta,
-
với tư cách là
-
giống loài tiến bộ
-
Nếu chúng ta thực thi công lý và nếu chúng ta tôn trọng các quyền
-
của toàn thể xã hội
-
sẽ tốt đẹp hơn về lâu dài.
-
Điều đó có thuyết phục không?
-
Hay là Mill thực sự,
-
đã không thừa nhận nó. Bước ra ngoài
-
cân nhắc những quan tâm của thuyết vị lợi
-
trong tranh luận
-
về những niềm vui định tính
-
cao quý hơn
-
và cho những quyền cá nhân
-
thiêng liêng
-
hay đặc biệt quan trọng
-
Chúng ta vẫn chưa trả lời đầy đủ câu hỏi đó,
-
vì để trả lời nó một cách đầy đủ
-
trong trường hợp của quyền và công lý,
-
yêu cầu chúng ta phải khám phá
-
những cách khác,
-
những cách không theo tính toán của thuyết vị lợi,
-
tính đến những cơ sở
-
hay quyền.
-
Rồi sau đó hỏi xem
-
liệu chúng có ổn không?
-
Như đối với Jeremy Bentham,
-
người khởi xướng
-
thuyết vị lợi
-
như một học thuyết
-
trong triết học đạo đức và pháp luật.
-
Bentham qua đời năm 1832 ở tuổi 85
-
nhưng ngày nay nếu bạn đến London, bạn có thể thăm ông ấy
-
theo đúng nghĩa đen.
-
Ông để lại di chúc của mình
-
theo đó, cơ thể của ông được bảo quản,
-
được ướp và trưng bày
-
trong trường đại học London
-
nơi ông vẫn còn ngự trong một chiếc lồng kính
-
với một chiếc đầu bằng sáp
-
ăn vận đúng bộ quần áo đời thực của mình.
-
Bạn có thể thấy rằng, trước khi chết,
-
Bentham đã tự đặt một câu hỏi nhất quán với triết lý của mình,
-
ông nói, lợi ích nào
-
mà một người chết có để lại cho người sống,
-
ông cho rằng đó là cách hiến xác
-
cho nghiên cứu giải phẫu học.
-
Tuy nhiên, trong trường hợp của các triết gia vĩ đại,
-
tốt hơn là
-
duy trì sự hiện diện về mặt thể xác của họ để truyền cảm hứng
cho các thế hệ những nhà tư tưởng trong tương lai.
-
Bạn muốn xem Bentham được nhồi bên trong như thế nào không?
-
Đây, ông ấy trông như thế này
-
Ông ấy đây.
-
Bây giờ, nếu bạn nhìn gần một chút
-
bạn sẽ nhận thấy
-
rằng,
-
thực tế việc ướp xác ông ấy không thành công lắm.
Nên họ đã thay thế một cái đầu bằng sáp
-
và ở phía dưới,
-
bạn có thể nhìn thấy cái đầu thật của ông
-
trên một đĩa kim loại.
-
Bạn thấy không?
-
Ở đây này.
-
Vậy thì, khía cạnh đạo đức của câu chuyện là gì?
-
Khía cạnh đạo đức của câu chuyện
-
Chia sẻ thêm rằng họ cũng mang ông ra ngoài
trong các cuộc họp hội đồng trường tại trường đại học London
-
và biên bản họp vẫn ghi nhận ông có mặt
nhưng không biểu quyết.
-
đây là một triết gia
-
khi sống và cả lúc chết vẫn toàn tâm toàn ý
-
Với
-
những nguyên tắc
-
triết lý của mình. Lần tới chúng ta sẽ tiếp tục với các quyền.
-
Đừng bỏ lỡ cơ hội giao lưu trực tuyến với những người cùng xem “Công Lý” khác
-
tham gia trò chuyện, làm một bài kiểm tra phổ thông,
-
xem các bài giảng mà bạn đã bỏ lỡ, v.v. Truy cập www.justiceharvard.org.
-
Đó là điều đúng nên làm.
-
Chương trình được tài trợ bởi
-
Tài trợ phụ bởi