-
Điện tích là một đặc tính
-
mà một số, nhưng không phải tất
cả các hạt cơ bản có trong tự nhiên
-
Các hạt được đề cập
-
đến nhiều nhất về điện tích là electron,
-
chúng quay quanh bên ngoài của nguyên tử.
-
Electron mang điện tích âm.
-
Ngoài ra còn có proton, chúng nằm
-
bên trong hạt nhân và
mang điện tích dương.
-
Các nơtron bên trong hạt nhân
-
không mang điện tích.
-
Hóa ra tất cả các hạt mang điện cơ bản
-
trong vũ trụ đều có điện tích là
-
bội số nguyên của điện tích sơ cấp.
-
Vì vậy, nếu bạn tìm thấy một hạt trong tự nhiên,
-
điện tích của nó sẽ là một lần số này,
-
hai lần số này, ba lần số này,
-
và có thể dương hoặc âm.
-
Ví dụ, electron có điện tích -1,6
-
lần 10 mũ trừ 19 Culông,
-
và điện tích của proton là 1,6
-
lần 10 mũ trừ 19 Culông,
-
Tuy nhiên, hầu hết các nguyên tử trong vũ trụ
-
nhìn chung đều trung hòa về điện,
-
vì chúng sẽ có cùng số electron âm
-
như số proton dương.
-
Nhưng nếu một nguyên tử
có quá nhiều electron,
-
tổng thể nguyên tử đó
sẽ mang điện tích âm,
-
và nếu một nguyên tử
thiếu quá nhiều electron,
-
tổng thể nguyên tử đó
sẽ mang điện tích dương.
-
Và điều thực sự quan trọng cần nhớ là
-
điện tích luôn được bảo toàn
-
trong mọi quá trình. Nói cách khác,
-
tổng điện tích ban đầu, sẽ bằng
-
tổng điện tích cuối cùng sau
bất kỳ quá trình nào.
-
Vậy một bài toán ví dụ liên quan
-
đến điện tích sẽ trông như thế nào?
-
Giả sử ba quả cầu kim loại có
kích thước giống hệt nhau
-
ban đầu có các
điện tích như dưới đây.
-
5 Q, 3 Q và -2 Q.
-
Nếu chúng ta chạm quả cầu X
vào quả cầu Y, rồi tách chúng ra,
-
sau đó chạm quả cầu Y vào
quả cầu Z, rồi tách chúng ra,
-
thì điện tích cuối cùng trên
mỗi quả cầu sẽ là bao nhiêu?
-
Được rồi, trước tiên, khi chúng ta chạm X vào Y,
-
tổng điện tích đã được bảo toàn.
-
Tổng điện tích của cả ba quả cầu là 8 Q,
-
và vì chúng có kích thước giống hệt nhau
-
chúng sẽ cùng chia sẻ tổng điện tích đó
-
điều này có nghĩa là sau khi chạm nhau
-
cả hai quả cầu X và Y đều sẽ mang điện tích dương 4 Q.
-
Nếu một trong những quả cầu lớn hơn,
-
nó sẽ nhận được nhiều điện tích hơn,
-
nhưng tổng điện tích vẫn được bảo toàn.
-
Bây giờ, khi quả cầu Y chạm vào quả cầu Z,
-
tổng điện tích của chúng tại thời điểm đó
-
sẽ là 4 Q cộng với -2 Q,
-
bằng 2 Q.
-
Chúng sẽ chia đều điện tích
này, vì vậy quả cầu Y sẽ
-
mang điện tích dương Q, và quả
cầu Z cũng sẽ mang điện tích dương Q.
-
Do đó, câu trả lời ở đây là C.
-
Trái dấu thì hút nhau,
cùng dấu thì đẩy nhau,
-
Định luật Culông giúp bạn xác định
-
độ lớn của lực điện giữa hai điện tích.
-
Công thức của Định luật Culông nói rằng
-
độ lớn của lực điện giữa hai điện tích
-
Q1 và Q2 bằng
-
hằng số điện K, bằng 9 nhân 10 mũ 9,
-
nhân tích của hai điện tích,
được đo bằng đơn vị Culông
-
chia cho bình phương khoảng cách
-
giữa tâm của hai điện tích
đó, bình phương nhé.
-
Bạn không thể quên bình phương khoảng cách đâu nhé.
-
Khoảng cách này phải được đo theo mét
-
để lực thu được có đơn
vị Newton theo hệ SI.
-
Cũng lưu ý rằng, dấu âm và
dấu dương của điện tích
-
không cho biết hướng của lực,
-
mà chỉ đơn giản là nhớ rằng các điện tích trái dấu hút nhau
-
cùng dấu thì đẩy nhau, và
dùng Định luật Culông
-
để tính độ lớn của lực.
-
Vậy một bài toán ví dụ liên quan đến
-
Định luật Culông sẽ như thế nào?
-
Giả sử hai điện tích tác dụng lên nhau
-
một lực điện có độ lớn là F.
-
Độ lớn của lực điện mới sẽ là bao nhiêu
-
nếu khoảng cách giữa các
điện tích tăng gấp ba lần
-
và độ lớn của một trong
các điện tích tăng gấp đôi?
-
Biết rằng công thức của Định luật Culông
-
nói rằng lực giữa hai điện tích bằng
-
hằng số điện nhân với một điện tích,
-
nhân với điện tích còn lại, chia cho
-
bình phương khoảng cách giữa chúng, và giờ nếu như chúng ta tăng gấp ba khoảng cách
-
và tăng gấp đôi một điện
tích, thì lực điện mới
-
sẽ bằng hằng số điện nhân với
một trong các điện tích,
-
nhân với hai lần một trong các điện tích,
-
chia cho ba lần khoảng cách, tất cả bình phương.
-
Vậy, tôi sẽ có một thừa số 2 ở tử số,
-
và thừa số 3 sẽ bình phương lên,
-
dẫn đến thừa số 9 ở mẫu số.
-
Nếu tính toán các thừa số
này, ta thấy lực mới
-
sẽ bằng hai phần chín nhân với K, Q1, Q2,
-
chia D bình phương, nhưng toàn bộ
-
biểu thức này chính xác bằng
lực cũ F, do đó lực mới
-
sẽ bằng hai phần chín của lực cũ.
-
Dòng điện (ký hiệu I) cho
biết lượng Culông điện tích
-
chạy qua một điểm trên dây dẫn mỗi giây.
-
Nghĩa là nếu bạn quan sát một điểm trên dây dẫn,
-
và đếm xem có bao nhiêu Culông điện tích
-
đi qua điểm đó mỗi giây,
thì đó chính là dòng điện.
-
Hoặc dưới dạng phương trình, dòng điện I
-
bằng lượng điện tích chạy qua
-
một điểm trên dây dẫn theo thời gian.
-
Điều này cho ta biết đơn
vị của I là Culông trên giây,
-
được viết tắt là Ampe.
-
Vì điện tích và thời gian không phải đại lượng vectơ,
-
nên dòng điện cũng không phải đại lượng vectơ.
-
Một điều hơi lạ
-
là cái gọi là hướng quy ước của dòng điện
-
sẽ là hướng mà các điện tích dương di chuyển trong dây dẫn.
-
Tuy nhiên, trên thực tế các điện tích dương không di chuyển trong dây dẫn.
-
Điện tích duy nhất thực sự di chuyển
-
trong dây dẫn là điện
tích âm, nhưng hóa ra
-
việc điện tích âm di chuyển
sang trái về mặt vật lý
-
thì giống hệt như điện tích
dương di chuyển sang phải.
-
Vì vậy, trong các bài toán
vật lý, chúng ta giả vờ
-
như thể các điện tích
dương đang di chuyển,
-
nhưng thực sự thì các electron, mang điện tích âm,
-
mới là những hạt di chuyển trong dây dẫn.
-
Một ví dụ về bài toán liên quan
-
đến dòng điện thì sẽ như thế nào?
-
Giả sử có một dòng điện 3 Ampe chạy trong mạch.
-
Hỏi lượng điện tích đi qua
một điểm trên dây dẫn đó
-
trong khoảng thời gian
5 phút là bao nhiêu?
-
Chúng ta đã biết định nghĩa về dòng điện
-
là lượng điện tích trên một đơn vị thời gian, điều này có nghĩa là điện tích
-
sẽ bằng lượng dòng
điện nhân với thời gian,
-
vì vậy chúng ta lấy dòng điện là 3 ampe,
-
và nhân với thời gian, nhưng chúng ta không thể
-
nhân với 5 vì đơn vị là phút,
-
vì ampe là Culông trên giây,
-
chúng ta phải đổi 5 phút thành giây,
-
sẽ là 5 phút, nhân
với 60 giây cho mỗi phút
-
sẽ cho chúng ta tổng điện tích
-
là 900 Culông.
-
Điện trở của một linh
kiện trong mạch cho biết
-
mức độ linh kiện đó hạn chế
dòng điện chạy qua.
-
Điện trở càng lớn,
-
dòng điện chạy qua càng ít.
-
Định luật Ôm định nghĩa
điện trở theo cách này.
-
Định luật Ôm nói rằng cường độ
-
dòng điện chạy qua một phần của mạch điện
-
tỉ lệ thuận với hiệu điện thế
-
giữa hai đầu phần đó, chia cho điện trở
-
của phần mạch đó.
-
Vì vậy, giữa hai điểm này, cường độ
-
dòng điện sẽ chạy qua, sẽ bằng
-
hiệu điện thế giữa hai điểm đó,
-
chia cho điện trở giữa hai điểm đó.
-
Do đó, điện trở càng lớn thì dòng điện
-
chạy qua càng ít, nhưng hiệu
điện thế cung cấp càng lớn,
-
càng lớn thì dòng điện chạy qua càng nhiều.
-
Và đây là những gì định luật Ôm nói
-
Mặc dù định luật Ôm
cung cấp cho bạn một cách
-
để xác định điện trở, bạn
cũng có thể xác định điện trở
-
của một linh kiện trong mạch bằng cách biết
-
kích thước và hình dạng của linh kiện đó
-
Nói cách khác, điện trở của
một điện trở hình trụ,
-
bằng điện trở suất,
-
đó là đặc tính tự nhiên
chống lại dòng điện
-
của vật liệu, nhân với
chiều dài của điện trở,
-
điện trở càng dài thì điện trở càng lớn
-
và càng cản trở dòng điện,
-
rồi chia cho tiết diện ngang của điện trở
-
vùng này ở ngay đây
-
nơi dòng điện đi vào
hoặc đi ra khỏi điện trở
-
Nếu điện trở hình trụ,
diện tích của hình tròn này
-
sẽ bằng Pi nhân r bình phương,
-
trong đó r nhỏ là bán
kính của tiết diện này.
-
Đơn vị của điện trở là Ôm, và nó không phải là một đại lượng vectơ.
-
Điện trở luôn luôn dương hoặc bằng 0.
-
Vậy một bài toán ví dụ liên quan đến Định luật Ôm,
-
hoặc điện trở của điện
trở hình trụ sẽ trông như thế nào?
-
Giả sử một pin có điện áp V được nối với
-
một điện trở hình trụ đơn có chiều dài L
-
và bán kính r nhỏ, và khi đó
-
dòng điện I đang chạy qua pin.
-
Điện trở suất Rho của
điện trở đó là bao nhiêu?
-
Theo Định luật Ôm, dòng điện
-
chạy qua một phần của mạch sẽ bằng
-
hiệu điện thế giữa hai đầu phần đó,
-
chia cho điện trở của phần mạch đó.
-
Điều này có nghĩa là điện trở của điện trở này sẽ bằng
-
điện áp của pin chia cho dòng điện.
-
Để đưa điện trở suất vào phép tính này, chúng ta cần sử dụng
-
công thức tính điện trở
của điện trở hình trụ,
-
bằng Rho nhân với L chia cho A.
-
Biến đổi này cho chúng ta
điện trở của điện trở,
-
bằng V trên I,
-
và bây giờ chúng ta có thể giải để tìm điện trở suất Rho.
-
Kết quả thu được là
V nhân A trên cho I và L
-
nhưng vì chúng ta được
cung cấp bán kính r nhỏ,
-
nên chúng ta phải viết diện tích theo bán kính đó
-
sẽ bằng V nhân Pi, r bình
phương, chia cho I nhân L
-
đáp án là C.
-
Khi xử lý các mạch điện
phức tạp với nhiều điện trở,
-
bạn thường phải giảm các điện trở đó
-
thành các giá trị điện
trở tương đương nhỏ hơn.
-
Có hai cách để thực hiện việc này
-
tìm hai điện trở được mắc
nối tiếp hoặc mắc song song.
-
Các điện trở được coi là mắc nối tiếp
-
nếu cùng một dòng điện chạy qua
-
điện trở thứ nhất cũng chạy qua điện trở thứ hai.
-
Nếu dòng điện phân nhánh giữa chúng,
-
thì các điện trở này không còn được coi là mắc nối tiếp
-
nhưng nếu chúng được mắc nối tiếp, bạn có thể
-
tìm điện trở tương đương của đoạn dây này
-
bằng cách chỉ cần cộng
tổng hai điện trở riêng lẻ.
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-