0:00:14.739,0:00:16.717 Ngày nay các nhà khoa học đã biết rằng bạn được di truyền 0:00:16.717,0:00:18.468 những đặc tính từ ba mẹ bạn. (Genotype = kiểu gen) 0:00:18.468,0:00:19.969 Họ có thể tính được khả năng 0:00:19.969,0:00:21.187 để một người có được một tính trạng (thuật ngữ cho "đặc tính") 0:00:21.187,0:00:22.479 , hoặc bị một bệnh nào đó 0:00:22.479,0:00:23.711 dựa trên thông tin mà họ thu thập được 0:00:23.711,0:00:25.767 từ ba mẹ hoặc từ gia phả của gia đình họ. 0:00:25.767,0:00:27.791 Nhưng điều ấy diễn ra thế nào. 0:00:27.791,0:00:29.114 Để hiểu được bằng cách nào một tính trạng được truyền 0:00:29.114,0:00:31.345 từ một người sang con cái của họ, 0:00:31.345,0:00:33.512 ta cần phải quay lại thế kỉ 19, 0:00:33.512,0:00:35.764 và gặp một người đàn ông tên Gregor Mendel. 0:00:35.764,0:00:37.893 Mendel là một linh mục người áo, và cũng là một nhà sinh vật học 0:00:37.893,0:00:39.559 rất thích làm việc với thực vật. 0:00:39.559,0:00:40.507 Bằng việc trồng rất nhiều cây đậu 0:00:40.507,0:00:42.143 trong khu vườn của nhà thờ nơi ông sống, 0:00:42.143,0:00:44.844 ông đã khám phá ra được quy luật đằng sau định luật di truyền này. 0:00:44.844,0:00:46.317 Một ví dụ kinh điển nhất cho việc này, 0:00:46.317,0:00:48.694 Mendel đã cho thụ phấn một cây hạt vàng "thuần chủng" (hai chữ cái giống nhau) 0:00:48.694,0:00:50.698 với một cây hạt xanh thuần chủng, 0:00:50.698,0:00:52.783 và ông chỉ thu được toàn cây hạt vàng ở đời sau. 0:00:52.783,0:00:55.151 Ông gọi tính trạng "vàng" là trội (dominant trait) 0:00:55.151,0:00:57.507 vì nó biểu hiện ở tất cả những hạt của cây con mới. 0:00:57.507,0:01:01.310 Sau đó, ông cho tự thụ phấn cây hạt vàng mới thu được. 0:01:01.310,0:01:02.543 Và ở trong thế hệ thứ hai này, 0:01:02.543,0:01:04.427 Ông thu được cả những cây hạt vàng lẫn cây hạt xanh, 0:01:04.427,0:01:06.088 đồng nghĩa với việc tính trạng "xanh" đã bị giấu đi 0:01:06.088,0:01:07.470 bởi tính trạng "trội" vàng. 0:01:07.470,0:01:10.014 Và ông gọi tính trạng này là lặn (recessive trait). 0:01:10.014,0:01:11.424 Từ những kết quả ở trên, Mendel giả thiết rằng 0:01:11.424,0:01:13.927 mỗi tính trạng dựa trên một cặp nhân tố, 0:01:13.927,0:01:15.096 mà một nhân tố đến từ mẹ, 0:01:15.096,0:01:17.105 và nhân tố còn lại đến từ bố. 0:01:17.105,0:01:19.064 Ngày này, chúng ta đã biết được những "nhân tố" đó được gọi là allele (phiên âm: a-liu) (minh họa bằng chữ cái), 0:01:19.064,0:01:21.525 và nó biểu hiện những mức độ khác nhau của một gen. 0:01:21.525,0:01:23.021 Phụ thuộc vào từng loại allele mà 0:01:23.021,0:01:24.439 Mendel đã tìm thấy ở một hạt, 0:01:24.439,0:01:26.274 ta sẽ có được thứ gọi là cây đậu "đồng hợp" (homozygous). 0:01:26.274,0:01:27.982 khi cả hai allele giống nhau, 0:01:27.982,0:01:29.616 và cây "dị hợp" (heterozygous), 0:01:29.616,0:01:31.529 khi hai allele khác nhau. 0:01:31.529,0:01:34.340 Sự kết hợp của những allele gọi là kiểu gen (genotype) 0:01:34.340,0:01:36.367 và kết quả, hay biểu hiện "vàng", "xanh" của nó, 0:01:36.367,0:01:38.026 được gọi là kiểu hình (phenotype). 0:01:38.026,0:01:39.927 Để có thể hình dung một các rõ ràng cơ chế các allele 0:01:39.927,0:01:41.014 được truyền lại ở các thế hệ sau, 0:01:41.014,0:01:43.477 ta có thể dùng một biểu đồ gọi là hình vuông Punnett (Punnett Square) 0:01:43.477,0:01:45.150 Bạn chỉ cần viết những allele (mấy cái ký tự) ở trên hai trục 0:01:45.150,0:01:47.599 và sau đó sẽ thấy những tổ hợp có thể. 0:01:47.599,0:01:49.491 Ví dụ, quay lại trường hợp của mấy cây đậu của Mendel, 0:01:49.491,0:01:52.818 Ký hiệu allele trội "vàng" bằng chữ "Y" hoa, 0:01:52.818,0:01:55.187 và allele lặn "xanh" bằng chữ "y" thường 0:01:55.187,0:01:58.193 Chữ "Y" luôn tỏ ra "ăn hiếp" với người bạn "y" bé nhỏ của mình, 0:01:58.193,0:01:59.608 nên cách duy nhất để có một cây hạt xanh 0:01:59.608,0:02:01.985 là bạn có tất cả đều là chữ "y" nhỏ. 0:02:01.985,0:02:03.325 Ở thế hệ đầu tiên, 0:02:03.325,0:02:04.824 người mẹ "vàng", đồng hợp 0:02:04.824,0:02:07.241 luôn cho con cái một allele trôi "vàng", 0:02:07.241,0:02:08.952 và người cha "xanh", đồng hợp 0:02:08.952,0:02:10.505 luôn cho một allele lặn "xanh". 0:02:10.505,0:02:13.206 Chính vì thế, tất cả những đứa con của họ đều là vàng, nhưng dị hợp. 0:02:13.206,0:02:14.923 Sau đó, ở thế hệ thứ hai, 0:02:14.923,0:02:16.742 khi mà hai người con "dị hợp" cưới nhau, 0:02:16.742,0:02:19.949 con của họ sẽ có một trong ba kiểu gen có thể, 0:02:19.949,0:02:21.199 và biểu hiện hai kiểu hình 0:02:21.199,0:02:23.785 theo tỉ lệ 3:1. 0:02:23.785,0:02:25.914 Nhưng, vấn đề là, một cây đậu lại có rất nhiều tính chất. 0:02:25.914,0:02:27.583 Ví dụ, ngoài việc là "vàng" hay "xanh". 0:02:27.583,0:02:29.468 hạt đậu còn thể "tròn" hay "nhăn", 0:02:29.468,0:02:31.326 vì thế ta sẽ có tất cả những trường hợp có thể sau: 0:02:31.326,0:02:32.243 hạt vàng tròn, 0:02:32.243,0:02:32.996 xanh tròn, 0:02:32.996,0:02:33.824 vàng nhăn, 0:02:33.824,0:02:35.467 và xanh nhăn. 0:02:35.467,0:02:38.059 Để tính được tỉ lệ của từng kiểu gen hay kiểu hình, 0:02:38.059,0:02:39.601 bạn có thể dùng hình vuông Punnett. 0:02:39.601,0:02:42.080 Tất nhiên, điều này sẽ phức tạp hơn một chút. 0:02:42.080,0:02:44.600 Và có một thứ còn phức tạp để nghiên cứu hơn hạt đậu, 0:02:44.600,0:02:46.328 con người. 0:02:46.328,0:02:48.109 Ngày nay, các nhà khoa học đã nghiên cứu và hiểu rõ hơn rất nhiều 0:02:48.109,0:02:49.578 về di truyền cũng như các phương thức và cơ chế của nó. 0:02:49.578,0:02:50.623 Và thực tế, một vài tính chất còn được di truyền 0:02:50.623,0:02:52.532 theo những cách rất đa dạng khá. 0:02:52.532,0:02:54.566 Nhưng, tất cả đều bắt đầu từ Mendel và những hạt đậu của ông.