Mỗi ngày, chúng ta phải đối mặt với
những vấn đề như thay đổi khí hậu
hay sự an toàn của vác-xin
nơi chúng ta phải trả lời những câu hỏi
phụ thuộc rất nhiều vào
các thông tin khoa học.
Khoa học nói với chúng ta rằng
trái đất đang nóng dần lên.
Khoa học nói với chúng ta rằng
vác-xin là an toàn.
Nhưng làm sao chúng ta biết
họ nói đúng hay không?
Tại sao lại phải tin vào khoa học?
Sự thật là, rất nhiều người trong chúng ta
không tin vào khoa học.
Các cuộc thăm dò dư luận
đều cho thấy
rằng một tỷ lệ đáng kể người dân Mỹ
không tin rằng khí hậu nóng dần lên
là do hoạt động của con người,
không tin rằng có sự tiến hóa
bởi chọn lọc tự nhiên,
và không bị thuyết phục
bởi tính an toàn của vác-xin.
Thế thì, tại sao chúng ta
nên tin tưởng vào khoa học?
Vâng, các nhà khoa học không thích
nói về khoa học như là một vấn đề của niềm tin.
Trong thực tế,
có sự tương phản giữa khoa học và đức tin,
và họ sẽ nói rằng
niềm tin là một lĩnh vực của đức tin.
Và đức tin là một thứ riêng biệt
và khác biệt hẳn với khoa học.
Thật vậy, họ có thể nói
tôn giáo là dựa trên đức tin
hay có thể tính toán
việc cá cược của Pascal.
Blaise Pascal là một nhà toán học thế kỷ 17
người đã cố gắng để
mang lý luận khoa học cho câu hỏi
có nên tin vào Chúa,
và sự cá cược của ông ấy như sau:
Vâng, nếu Chúa không tồn tại
nhưng tôi lại quyết định tin vào Ngài
không có gì thật sự mất đi.
Có thể chỉ là vài tiếng đồng hồ
vào ngày chủ nhật.
(Cười lớn)
Nhưng nếu Ngài có tồn tại
và tôi không tin vào điều này,
thì tôi sẽ gặp rắc rối lớn.
Và vì thế, Pascal đã nói,
tốt nhất là nên tin vào Chúa.
Hay là một trong số
những giáo sư đại học của tôi cũng nói,
"Hãy bám chặt lấy cái lan can của đức tin"
Ông ấy đã tạo ra được
một bước nhảy vọt của đức tin
bỏ lại phía sau
khoa học và chủ nghĩa duy lý.
Mặc dù, thực tế hiện nay là,
hầu hết chúng ta,
hầu hết các tuyên bố khoa học
là một bước nhảy vọt của đức tin.
Chúng ta thật sự không thể tự đánh giá
các tuyên bố khoa học
trong hầu hết các trường hợp.
Và thật vậy, điều này cũng thật sự đúng
với hầu hết các nhà khoa học
với những vấn đề
nằm ngoài chuyên môn của họ.
Nếu bạn nghĩ về nó, thì một nhà địa chất học
sẽ không thể nói cho bạn biết
vắc-xin có an toàn hay không.
Hầu hết các nhà hóa học, không phải
là chuyên gia trong lý thuyết tiến hóa.
Một nhà vật lý học không thể cho bạn biết,
mặc cho một vài tuyên bố của họ,
thuốc lá có gây ung thư hay không.
Vì thế, cho dù là chính các nhà khoa học
cũng phải thực hiện
một bước nhảy vọt của niềm tin
với những thứ bên ngoài lĩnh vực của họ,
đó là lý do tại sao họ chấp nhận
những tuyên bố của những nhà khoa học khác.
Tại sao họ lại tin vào
những tuyên bố của nhau?
Và chúng ta có nên tin vào
những tuyên bố đó?
Điều mà tôi muốn tranh luận ở đây là có, chúng ta nên tin
nhưng không phải là vì lý do
mà hầu hết trong chúng ta nghĩ tới
Hầu hết chúng ta được dạy ở trường
lý do mà chúng ta nên
tin tưởng vào khoa học
là vì các phương pháp khoa học.
Chúng ta được dạy rằng
các nhà khoa học tuân theo một phương pháp
và phương pháp này bảo đảm
cho tính đúng đắn về các tuyên bố của họ.
Phương pháp mà hầu hết chúng ta
được dạy ở trường,
chúng ta có thể gọi nó là
phương pháp sách giáo khoa,
là phương pháp suy diễn giả thiết.
Theo mô hình chuẩn,
mô hình sách giáo khoa,
các nhà khoa học phát triển những giả thiết,
và họ suy diễn
những kết quả của những giả thiết đó,
và sao đó họ đi ra ngoài
và nói với thế giới,
"Được rồi, à,
có phải những kết quả đó là đúng?"
Chúng ta có thể quan sát chúng
đang diễn ra trong thế giới tự nhiên không?
Và nếu kết quả đưa ra là đúng,
thì các nhà khoa học sẽ nói rằng,
"Tuyệt vời,
chúng tôi biết giả thiết đó là đúng mà"
Vì thế mà có rất nhiều
những ví dụ nổi tiếng trong lịch sử khoa học
của các nhà khoa học
làm chính xác những điều như vậy.
Một trong những ví dụ nổi tiếng nhất
đến từ tác phẩm của Albert Einstein.
Khi Einstein phát triển
Lý thuyết tương đối tổng quát,
một trong những kết quả của thuyết này
là thời gian - không gian không
chỉ là một khoảng trống rổng
nhưng nó thật sự có một kết cấu.
Và kết cấu đó đã bị uốn cong
bởi sự hiện diện của một vật thể to lớn
như mặt trời.
Vì thế, nếu lý thuyết này là đúng
thì điều đó có nghĩa là ánh sáng
khi đi qua mặt trời
nên bị bẻ cong đi xung quanh nó.
Đó là một dự đoán gây sửng sốt
và phải mất vài năm
trước khi các nhà khoa học
có thể kiểm chứng nó
nhưng họ đã kiểm chứng nó vào năm 1919,
và thật lạ, nó đúng là sự thật
Ánh sáng đã thật sự bị bẻ cong
khi nó đi qua mặt trời.
Đây là một sự khẳng định rất lớn
của lý thuyết này.
Nó được xem như là bằng chứng của sự thật
của ý tưởng mới triệt để này,
và nó được đăng trên rất nhiều tờ báo
trên toàn cầu.
Bây giờ, đôi khi lý thuyết này
hay mô hình này
được gọi tắt là mô hình giảng giải lo-gíc diễn dịch,
chủ yếu là vì các học giả muốn làm cho
mọi thứ trở nên phức tạp.
Nhưng cũng bởi vì trong trường hợp lý tưởng,
thì đó là định luật.
Vì thế, giảng giải lo-gíc có nghĩa là
phải làm gì với các định luật.
Và trong trường hợp lý tưởng,
giả thiết không chỉ là một ý tưởng:
lý tưởng, đó là một định luật của tự nhiên.
Tại sao nó lại quan trọng
khi nó là một định luật của tự nhiên?
Bởi vì nếu là luật,
thì nó không thể bị phá vỡ.
Nếu nó là luật
thì nó sẽ luôn luôn đúng
ở mọi lúc mọi nơi
trong bất cứ trường hợp nào.
Và tất cả các bạn đều biết ít nhất
một ví dụ của 1 định luật nổi tiếng:
Phương trình nổi tiếng của Einstein
E=MC2,
phương trình nói lên mối quan hệ
giữa năng lượng và khối lượng.
Và bất kể như thế nào thì mối quan hệ đó là đúng.
Bây giờ, thành ra, mặc dù,
có vài vấn đề với mô hình này.
Vấn đề chính là nó sai.
Nó không đúng.
(Cười lớn)
Và tôi sẽ nói về 3 lý do
tại sao nó sai.
Lý do thứ nhất là về lo-gíc.
Nó là sự sai lầm của việc ảo tưởng
khẳng định kết quả.
Đó là một cách thú vị khác,
một cách hàn lâm khi nói
lý thuyết sai lầm đó
có thể dẫn đến một dự đoán đúng.
Vì thế, chỉ vì dự đoán đó đúng
cũng không thực sự hợp lý khi
chứng minh rằng lý thuyết đó đúng.
Và tôi cũng có một ví dụ hay về điều này,
cũng là từ lịch sử khoa học.
Đây là một bức ảnh của vũ trụ
thuộc triều đại Ptolemy
với Trái đất là trung tâm của vũ trụ
và Mặt trời và các hành tinh
đi xung quanh nó.
Mô hình của triều đại Ptolemy
đã được tin tưởng
bởi rất nhiều những người thông minh
trong nhiều thế kỷ,
Vâng, tại sao?
Là bởi vì nó làm cho
rất nhiều dự đoán trở thành sự thật.
Hệ thống Ptolemy
cho phép các nhà thiên văn học
đưa ra các dự đoán chính xác
về sự chuyển động của hành tinh,
trên thực tế, nhiều dự đoán chính xác hơn lúc đầu
so với lý thuyết Copernicus
mà hiện tại chúng ta cho là đúng.
Và đó là một vấn đề
của mô hình sách giáo khoa.
Vấn đề thứ hai là vấn đề thực tiễn,
và nó là vấn đề của các giả thiết phụ trợ.
Các giả thiết phụ trợ là những giả định
mà các nhà khoa học đang thực hiện
mà họ có thể có hoặc không có ý thức
rằng họ đang thực hiện nó.
Một ví dụ quan trọng của vấn đề này
là mô hình Copernicus,
cuối cùng đã thay thế hệ thống Ptolemy.
Khi Nicolaus Copernicus nói
thật ra, Trái đất không phải là
trung tâm của vũ trụ,
và mặt trời là trung tâm của
hệ thái dương,
Trái đất quay xung quanh Mặt trời.
Các nhà khoa học nói, à vâng, Nicolaus,
nếu điều đó là đúng
thì chúng ta phải có thể phát hiện ra
chuyển động
của Trái đất xung quanh Mặt trời.
Và slide này sẽ minh họa cho một khái niệm
được gọi là thị sai của sao (stellar parallax).
Và các nhà thiên văn học cho biết,
nếu Trái đất đang chuyển động
và chúng ta nhìn vào một ngôi sao nổi bật,
giả sử, sao Thiên Lang -
tôi biết là tôi đang ở Manhattan
nên các bạn sẽ không thể nhìn thấy nó,
nhưng hãy hình dung, bạn ở ngoài vùng này,
bạn đang ở gần với cuộc sống nông thôn --
và chúng ta đang ngắm sao vào tháng 12,
chúng ta nhìn thấy ngôi sao đó
trong bối cảnh của các ngôi sao ở xa kia.
Nếu bây giờ, chúng ta thực hiện
một cuộc quan sát cho 6 tháng sau đó
khi Trái đất đã di chuyển đến vị trí này
vào tháng 6,
chúng ta sẽ nhìn vào cùng ngôi sao ấy
nhưng ở vào một bối cảnh khác.
Sự khác biệt đó, sự chênh lệch góc đó,
đó là thị sai sao.
Và đây là dự đoán mà mô hình Copernicus thực hiện.
Các nhà thiên văn học tìm kiếm thị sai sao
và họ không tìm thấy gì cả, không có gì.
Và nhiều người lập luận rằng,
điều này cho thấy mô hình Copernicus là sai.
Thế chuyện gì đã xảy ra?
Vâng, khi nhìn lại, chúng ta có thể nói
rằng các nhà thiên văn học đã tạo ra
2 giả thiết phụ trợ, và cả hai
chúng ta có thể nói là không đúng.
Đầu tiên là giả định về kích cỡ
của quỹ đạo Trái đất.
Các nhà thiên văn học đã giả định
rằng trái đất có quỹ đạo lớn
so với khoảng cách tới các ngôi sao.
Ngày nay, chúng ta có thể vẽ ra hình ảnh như thế này,
điều này đến từ NASA,
và bạn có thể thấy đấy,
quỹ đạo Trái đất thật sự khá nhỏ.
Trên thực tế, nó thật ra nhỏ hơn rất nhiều
so với những gì được thấy ở đây.
Vì vậy, thị sai sao
sẽ rất là nhỏ
và thật sự rất khó để có thể phát hiện ra.
Và điều đó dẫn đến lý do thứ 2
tại sao dự đoán đó không đúng,
bởi vì các nhà khoa học cũng giả thiết
rằng kính viễn vọng mà họ có đủ nhạy
để phát hiện ra thị sai.
Và nó thành ra không đúng.
Cho đến thế kỷ 19
các nhà khoa học mới có thể phát hiện ra
thị sai sao.
Vì thế, đó cũng là vấn đề thứ 3.
Vấn đề thứ 3 là đơn giản một vấn đề thực tế,
rất nhiều khoa học không phù hợp
với mô hình sách giáo khoa.
Rất nhiều khoa học không suy diễn gì cả,
nó chính xác là quy nạp.
Và do đó, chúng tôi nghĩ rằng
các nhà khoa học không nhất thiết
phải bắt đầu với các giả thiết và lý thuyết,
thường thì họ chỉ cần bắt đầu quan sát
những thứ đang xảy ra trên thế giới.
Một ví dụ nổi tiếng trong số đó là
về một nhà khoa học nổi tiếng nhất,
Charles Darwin.
Khi Darwin còn trẻ rong ruổi trên hành trình của tàu Beagle,
ông không có các giải thiết,
hay lý thuyết nào cả.
Ông chỉ biết rằng ông
muốn có một sự nghiệp của một nhà khoa học
và ông bắt đầu thu thập các dữ liệu.
Chủ yếu thì ông biết rằng
ông ấy ghét các loại thuốc
bởi vì nhìn thấy máu
làm ông phát ốm
vì thế, ông cần phải có một
con đường sự nghiệp khác.
Ông bắt đầu thu thập các dữ liệu.
Ông ấy đã thu thập rất nhiều thứ,
bao gồm cả con chim sẻ nổi tiếng của mình.
Khi ông lượm những con chim sẻ này,
ông ấy ném chúng vào trong một cái túi
và không có một ý tưởng gì với chúng.
Nhiều năm sau đó, khi trở về London,
Darwin xem xét lại các dữ liệu của mình
một lần nữa và bắt đầu
phát triển lời giải thích,
và lời giải thích đó chính là
Thuyết chọn lọc tự nhiên.
Bên cạnh khoa học quy nạp,
các nhà khoa học cũng thường xuyên
tham gia vào các mô hình hóa.
Một trong những thứ mà các nhà khoa học
muốn làm trong cuộc sống
là giải thích nguyên nhân của sự vật, sự việc.
Và chúng ta làm điều đó như thế nào?
Vâng, một cách mà bạn có thể làm được đó là
xây dựng một mô hình
để kiểm tra một ý tưởng.
Đây là bức tranh của Henry Cadell,
một nhà địa chất người Scotland thế kỷ 19.
Bạn có thể nói anh ta là người Scotland
vì anh ta đang đội
một chiếc mũ deerstalker
và mang ủng Wellington.
(Cười lớn)
Và Cadell muốn trả lời câu hỏi
các ngọn núi được hình thành như thế nào?
Và một trong những thứ mà anh ta đã quan sát
là nếu bạn nhìn vào các ngọn núi như
dãy núi Appalachia,
bạn sẽ thấy những tảng đá trên núi
có nếp gấp,
và chúng bị gấp theo một cách đặc biệt,
đã đưa anh ta đến với ý tưởng
rằng những viên đá đó bị nén
từ một phía.
Và ý tưởng này đóng vai trò quan trọng
trong các cuộc thảo luận về
vấn đề trôi dạt lục địa.
Vì thế, anh ta đã xây dựng mô hình này,
đây là cái máy điên rồ
với các đòn bẩy và gỗ,
và đây là chiếc xe cút kít của anh ta,
những cái xô
và một chiếc búa tạ lớn.
Tôi không biết tại sao anh ta lại mang
đôi ủng Wellington.
Có lẽ trời sẽ mưa.
Và anh ta đã tạo ra mô hình vật lý này
để mô tả rằng bạn có thể, trên thực tế,
tạo ra các mô hình trên đá, hay ít nhất,
trong trường hợp này, là ở trên bùn
nó trông rất giống một ngọn núi
nếu bạn nén một bên.
Vì thế, có một sự tranh cãi
về nguyên nhân tạo thành núi.
Ngày nay, hầu hết các nhà khoa học
thích làm việc trong nhà,
vì thế họ không xây dựng một mô hình vật lý
mà thực hiện mô phỏng trên máy tính.
Nhưng việc mô phỏng máy tính
là một loại của mô hình.
Nó là mô hình được làm bằng toán học,
và giống như mô hình vật lý thế kỷ 19,
nó rất quan trọng
cho việc suy nghĩ về các nguyên nhân.
Và một trong số những câu hỏi lớn về biến đổi khí hậu,
chúng ta có một lượng lớn các bằng chứng
rằng Trái đất đang nóng lên.
Ở slide này, đường màu đen cho thấy
các phép đo mà các nhà khoa học đã làm
trong 150 năm qua
cho thấy nhiệt độ Trái đất
luôn tăng lên đều đặn,
và bạn có thể thấy,
đặc biệt là trong 50 năm qua,
có một sự tăng đột biến
gần 1 độ C,
hay nói cách khác là gần 2 độ F.
Vì vậy, tuy nhiên,
cái gì đã tạo nên sự thay đổi đó?
Làm sao chúng ta biết được nguyên nhân
của hiện tượng nóng lên toàn cầu?
Vâng, các nhà khoa học có thể
mô hình hóa nó
bằng cách sử dụng mô phỏng máy tính.
Sơ đồ này minh họa một mô hình mô phỏng máy tính
đã xem xét tất cả các yếu tố khác nhau
mà chúng ta biết có thể tác động
đến nhiệt độ của Trái đất,
như các phân tử sunfat sinh ra từ không khí ô nhiễm,
bụi núi lửa từ các đợt phun trào,
những thay đổi trong bức xạ mặt trời,
và dĩ nhiên, khí nhà kính nữa.
Và họ đã đặt câu hỏi,
tổ hợp các biến đổi nào khi đưa vào mô hình
sẽ tái tạo ra được điều mà chúng ta thấy
trong đời thực?
Và đây là cuộc sống thực trong màu đen.
Đây là mô hình trong ánh sáng màu xám này,
và câu trả lời là
một mô hình bao gồm,
nó là câu trả lời E trên SAT,
tất cả các yếu tố trên.
Cách duy nhất bạn có thể tái tạo lại
các phép đo nhiệt độ quan sát được
là đặt tất cả chúng lại với nhau,
bao gồm cả khí nhà kính,
và đặc biệt, bạn có thể thấy rằng
sự tăng lên
trong việc theo dõi khí nhà kính
làm nhiệt độ tăng lên đột ngột
trong vòng 50 năm qua.
Và đây là lý do tại sao
các nhà khoa học khí hậu nói rằng
Đó không chỉ là điều chúng ta biết rằng
biến đổi khí hậu đang xảy ra
mà là khí nhà kính là một phần quan trọng
trong các lý do.
Và bây giờ,
bởi vì tất cả những điều khác nhau
mà các nhà khoa học làm,
nhà triết gia nổi tiếng Paul Feyerabend
đã nói,
"Nguyên tắc duy nhất của khoa học
mà không gây cản trở tiến trình là:
thử bất cứ thứ gì."
Bây giờ, trích dẫn này
thường được đưa ra khỏi ngữ cảnh,
bởi vì Feyerabend không thật sự nói
rằng trong khoa học,
mọi thứ đều có thể thử.
Điều mà ông ấy đã nói là,
thật ra, trích dẫn đầy đủ là,
"Nếu bạn thúc giục tôi để nói
phương pháp của kho học là gì,
tôi sẽ nói là: thử bất cứ thứ gì."
Điều mà ông cố gắng để truyền đạt
đó là các nhà khoa học
thực hiện rất nhiều việc khác nhau.
Các nhà khoa học rất sáng tạo.
Nhưng sau đó, lại có những câu hỏi như:
Nếu các nhà khoa học không chỉ sử dụng
duy nhất 1 phương pháp,
thì làm sao họ quyết định được
cái gì là đúng và cái gì là sai?
Và ai sẽ đánh giá điều đó?
Và câu trả lời là,
các nhà khoa học sẽ đánh giá,
và họ đánh giá
bằng việc đánh giá các bằng chứng.
Các nhà khoa học thu thập các bằng chứng
theo nhiều cách khác nhau,
khi bất cứ khi nào họ thu thập chứng cứ,
họ phải chịu sự giám sát.
Và điều này dẫn đến việc nhà xã hội học
Robert Merton
tập trung hơn vào câu hỏi
làm sao các nhà khoa học
có thể xem xét kỹ lưỡng
các dữ liệu và chứng cứ,
và anh ta nói rằng họ làm nó theo cách
mà anh ta gọi là
"Tính hoài nghi"
Ý anh ta là sự hoài nghi là cố tổ chức hẳn hoi
vì các nhà khoa học làm theo một tập thể,
họ làm việc theo nhóm,
và hoài nghi, bởi vì họ làm việc trên vị thế
của sự ngờ vực.
Tức là, nghĩa vụ chứng minh
thuộc về người có tuyên bố mới.
Và theo nghĩa này,
khoa học có tính chất bảo thủ.
Hơi khó khăn để thuyết phục
cộng đồng khoa học
để nói rằng,
"Vâng, chúng tôi biết, điều này là đúng."
Vì vậy, mặc cho sự phổ biến của khái niệm
thay đổi khuôn mẫu nhận thức
(paradigm shift),
cái cuối cùng chúng ta tìm thấy là,
những thay đổi chủ yếu trong tư duy khoa học
là tương đối hiếm trong lịch sử khoa học.
Vì thế, cuối cùng
điều đó mang chúng ta đến một ý tưởng khác:
Nếu các nhà khoa học đánh giá
các bằng chứng theo tập thể,
điều này làm các nhà sử học
lại tập trung vào câu hỏi
của sự đồng thuận,
và cuối cùng, để nói rằng
khoa học là,
kiến thức khoa học là,
là sự đồng thuận của các
chuyên gia khoa học
người thông qua
quá trình giám sát có tổ chức,
giám sát tập thể,
đánh giá các bằng chứng
và đi tới kết luận về chúng,
dù có hoặc không.
Vì thế, chúng ta có thể nghĩ về
các kiến thức khoa học
như là một sự đồng thuận của các chuyên gia.
Chúng ta cũng có thể nghĩ về khoa học
giống như một bồi thẩm đoàn,
ngoại trừ việc bồi thẩm đoàn này là 1 thể loại đặc biệt
Không chỉ là bồi thẩm đoàn của đồng môn
mà là bồi thẩm đoàn của
các chuyên gia.
Đó là bồi thẩm đoàn của nam giới và nữ giới
có bằng tiến sĩ,
và không giống như
một bồi thẩm đoàn thông thường,
chỉ có 2 lựa chọn,
có tội hay không có tội,
bồi thẩm đoàn khoa học có một số lựa chọn.
Các nhà khoa học có thể nói có,
nếu điều đó là đúng.
Họ có thể nói không nếu là sai.
Hoặc, họ cũng có thể nói,
vâng, có lẽ đúng
nhưng chúng tôi cần phải làm việc nhiều hơn
và thu thập nhiều bằng chứng hơn.
Hoặc, họ cũng có thể nói có lẽ đúng
nhưng chúng tôi không biết làm sao
để trả lời câu hỏi
và chúng tôi sẽ để nó sang một bên
và có lẽ chúng tôi sẽ xem xét lại sau.
Đó là thứ mà các nhà khoa học gọi là
"nan giải"
Và điều này dẫn chúng ta đến
vấn đề cuối cùng:
Nếu khoa học
là điều mà các nhà khoa học nói đúng như vậy
sau đó thì không phải chỉ là viện dẫn thẩm quyền sao?
Không phải chúng ta được dạy ở trường
rằng viện dẫn thẩm quyền là lỗi logic sao?
Vâng,
đây là nghịch lý của khoa học hiện đại,
nghịch lý của kết luận
mà tôi nghĩ các nhà lịch sử học
triết học và xã hội học đã gặp,
đó là, trên thực tế,
khoa học là sự viện dẫn thẩm quyền
nhưng đó không phải là thẩm quyèn của một cá nhân
không quan trọng là cá nhân có thông minh đến đâu,
như Plato hay Socrates hay Einstein.
Nó là quyền lực của một cộng đồng tập thể.
Bạn có thể nghĩ về nó như một kiểu
trí tuệ của đám đông,
nhưng là một kiểu đám đông rất đặc biệt.
Khoa học là thực hiện viện dẫn thẩm quyền,
nhưng không dựa trên bất cứ cá nhân nào,
không quan trọng là cá nhân đó có thông minh đến đâu.
Khoa học dựa trên trí tuệ tập thể,
kiến thức tập thể, làm việc tập thể,
của tất cả các nhà khoa học làm việc
trong một vấn đề cụ thể.
Các nhà khoa học có một kiểu văn hóa
của sự ngờ vực tập thể,
văn hóa "thể hiện bản thân",
minh họa bằng người phụ nữ xinh đẹp ở đây
cho đồng nghiệp
xem các bằng chứng của mình.
Dĩ nhiên, những người này
trông không giống như những nhà khoa học,
bởi vì họ quá vui vẻ.
(Cười lớn)
Được thôi,
và điều đó đưa tôi đến kết luận.
Hầu hết chúng ta thức dậy vào buổi sáng.
Hầu hết chúng ta
tin tưởng vào chiếc xe hơi của mình.
Vâng, bây giờ tôi đang suy nghĩ,
tôi đang ở Manhattan,
đây là một phép loại suy xấu.
nhưng hầu hết người Mỹ không sống ở Manhattan
thức dậy vào buổi sáng và bước vào xe
và kích hoạt động cơ,
và chiếc xe hoạt động,
và họ làm việc cực kỳ tốt.
Những ô tô hiện đại
hầu như không bao giờ bị hư hỏng.
Tại sao?
Tại sao những chiếc xe hơi lại chạy rất tốt?
Không phải vì sự thiên tài
của Henry Ford
hay Karl Benz
hay ngay cả Elon Musk.
Mà bởi vì những ô tô hiện đại
là sản phẩm của hơn 100 năm làm việc
của hàng trăm hàng ngàn
và hàng chục ngàn người.
Những ô tô hiện đại là sản phẩm
của làm việc tập thể
và trí tuệ và kinh nghiệm
của mỗi người cả nam lẫn nữ đã từng làm việc
về xe hơi,
và độ tin cậy của công nghệ này là kết quả
của sự tích lũy nổ lực đó.
Chúng ta được hưởng lợi không chỉ từ
sự khôn ngoan của Benz
và Ford và Musk
mà là tự trí tuệ tập thể
và làm việc chăm chỉ
của tất cả mọi người đã làm việc
trên chiếc xe hơi hiện đại này.
Và điều tương tự cũng đúng với khoa học,
chỉ là khoa học thì cũ xưa hơn.
Điều cơ bản để tin vào khoa học
cũng giống như
điều cơ bản khi chúng ta tin vào công nghệ,
và giống với các điều cơ bản
khi chúng ta tin vào bất cứ thứ gì,
cụ thể là, kinh nghiệm.
Nhưng đó không thể là niềm tin mù quáng
khi chúng ta tin mù quáng vào bất cứ thứ gì.
Niềm tin của chúng ta trong khoa học,
giống như bản thân khoa học,
nên dựa trên các bằng chứng,
và điều đó nghĩa là các nhà khoa học
phải trở thành người truyền thông tốt hơn.
Họ phải giải thích cho chúng ta
không chỉ cái họ biết
mà còn là làm sao họ biết điều đó,
và điều đó cũng có nghĩa là
chúng ta phải trở thành người nghe tốt hơn.
Cảm ơn rất nhiều.
(Vỗ tay)