Như chúng ta đã biết, một trong những thú vui tuyệt vời của du lịch và niềm vui của nghiên cứu dân tộc học là cơ hội được sống giữa những người không quên quá khứ, những người vẫn cảm nhận thấy quá khứ của mình trong gió, sờ thấy quá khứ trong những tảng đá đã bị nước mưa rửa sạch và nếm nó trong vị đắng của lá cây, chỉ để biết rằng những pháp sư Jaguar vẫn tiếp tục cuộc hành trình ngoài Dải ngân hà, và huyền thoại về những già lão Inuit vẫn vang lên đầy ý nghĩa, hay ở trên dãy Himalaya, những nhà sư vẫn theo đuổi con đường Phật pháp. Khi nói về bản chất của nhân chủng học, có ý kiến cho rằng thế giới chúng ta đang sống không hề tồn tại một cách tuyệt đối, mà chỉ là một thực thể, kết quả của một loạt những lựa chọn thích nghi cụ thể mà tổ tiên chúng ta đã chọn thành công cách đây rất nhiều thế hệ. Và tất nhiên, tất cả chúng ta đều trải qua quá trình phát triển và thích nghi như nhau. Chúng ta đều được sinh ra rồi lại sinh con đẻ cái. Chúng ta cùng phải trải qua những nghi lễ đầu đời. Chúng ta cùng phải đối mặt với sự chia ly không thể tránh khỏi của cái chết, do đó không hề ngạc nhiên khi chúng ta đều hát, đều nhảy, và trong mỗi người đều có nghệ thuật. Nhưng điều thú vị lại là những phách nhịp độc đáo của bài hát, sự nhịp nhàng rất riêng trong vũ điệu của mỗi nền văn hóa, dù đó là văn hóa của những người Penan sống trong rừng già Borneo, hay những thầy tu Voodoo ở Haiti, hay những chiến binh ở sa mạc Kaisut, phía Bắc Kenya, những pháp sư Curandero sống trên dãy núi Andes, hay đoàn thương nhân ở giữa lòng sa mạc Sahara. Đây là một người bạn mà tôi tình cờ đi du lịch sa mạc cùng một tháng trước, thực chất là một người chăn bò trên sườn Qomolangma, đỉnh Everest, mẹ thần thánh của thế giới. Tất cả những con người này dạy cho chúng ta rằng có rất nhiều cách khác nhau để sống, để suy nghĩ, để định hướng bản thân trên Trái đất này. Và đó là một ý tưởng mà nếu bạn nghĩ về nó, sẽ mang lại cho bạn hy vọng Giờ đây, vô số nền văn hóa cùng tồn tại trên thế giới tạo thành một mạng lưới đời sống tinh thần và đời sống văn hóa bao bọc hành tinh này, điều này thực sự quan trọng với sự tồn tại của hành tinh không kém gì mạng lưới sinh thái mà chúng ta biết đến với tên gọi là sinh quyển. Và bạn có thể định nghĩa mạng lưới đời sống văn hóa này như một sinh quyển dân tộc và bạn có thể định nghĩa sinh quyển dân tộc như một tổng hòa của tất cả những suy nghĩ, ước mơ, huyền thoại, ý tưởng, cảm hứng, trực giác được tạo ra bởi trí tưởng tượng con người kể từ khi có sự xuất hiện của ý thức. Sinh quyển dân tộc là một truyền thuyết vĩ đại của nhân loại. Đó là biểu tượng của tất cả những gì chúng ta có và tất cả những gì chúng ta có thể làm như một giống loài ham học hỏi. Và khi sinh quyển bị xói mòn nghiêm trọng, thì sinh quyển dân tộc cũng thế và có thể ở một tốc độ nhanh hơn. Chẳng hạn, không một nhà sinh vật học nào dám cho rằng có tới 50% số loài sinh vật hoặc hơn đã và đang đứng trên bờ vực tuyệt chủng vì đơn giản là điều này không đúng, ngay cả trong hoàn cảnh hủy diệt nhất của vương quốc sinh học đa dạng. Cũng rất khó để kết luận những gì ta biết là viễn cảnh lạc quan nhất của thế giới văn hóa muôn màu. Và dấu hiệu rõ ràng nhất tất nhiên là ngôn ngữ mất đi. Khi mỗi chúng ta trong căn phòng này được sinh ra, có khoảng 6000 ngôn ngữ đang tồn tại trên hành tinh. Giờ đây, ngôn ngữ không chỉ là chủ thể của từ vựng hay là một bộ quy tắc ngữ pháp. Ngôn ngữ là sự thể hiện của tinh thần con người. Đó là phương tiện mà linh hồn của mỗi nền văn hóa được chuyển đến thế giới vật chất. Mỗi ngôn ngữ là một khu rừng phát triển lâu đời, một bước ngoặt, một ý tưởng, một hệ sinh thái của năng lực tinh thần. Và khi chúng ta ngồi đây, hôm nay, ở Montery, trong số 6000 ngôn ngữ đấy, một nửa đã hoàn toàn biến mất. Những ngôn ngữ này không còn được dạy lại cho những đứa trẻ, điều này gần như có nghĩa rằng những ngôn ngữ này đã chết. Liệu còn có điều gì có thể cô đơn hơn bị cô lập trong im lặng, trở thành người cuối cùng của dân tộc nói ngôn ngữ của mình, và không có cách nào truyền lại trí tuệ tổ tiên hay dự đoán tương lai của những đứa trẻ? Và định mệnh nghiệt ngã đó cũng là cảnh ngộ của một vài người, ở đâu đó trên Trái Đất cứ mỗi hai tuần lại xảy ra một lần vì cứ mỗi hai tuần, lại có một già lão chết đi và mang theo xuống mồ những âm tiết cuối cùng của một ngôn ngữ cổ đại. Và tôi biết sẽ có một ai đó trong số các bạn nói rằng, "Biết đâu như thế lại tốt hơn? Biết đâu thế giới lại tốt hơn nếu như chúng ta cùng nói chung một ngôn ngữ" Và tôi sẽ nói, "Tuyệt vời, hãy chọn ngôn ngữ đó là tiếng Yoruba. Hãy chọn ngôn ngữ đó là tiếng Quảng Đông. Hãy chọn ngôn ngữ đó là tiếng Kogi." Và bạn sẽ đột nhiên nhận ra rằng sẽ như thế nào nếu không thể nói ngôn ngữ của chính mình. Và do đó, điều mà tôi muốn làm cùng các bạn ngày hôm nay là đưa các bạn đi tham quan một vòng sinh quyển dân tộc - một chuyến đi ngắn để cố gắng cho các bạn một cái nhìn về thực tế điều gì đang mất đi. Hiện nay, có rất nhiều người trong số chúng ta đã quên rằng khi tôi nói "nhiều cách sống khác nhau." Tôi thực sự nói rằng có rất nhiều cách sống khác nhau. Hãy lấy đứa trẻ dân tộc Barasana sống ở Tây Bắc vùng Amazone làm ví dụ, dân tộc của trăn anaconda những người tin rằng trong thần thoại họ đã từng đi qua dòng sông sữa từ phía Đông bên trong bụng của những con rắn thần. Cho đến bây giờ, đây là một dân tộc mà trong nhận thức không phân biệt giữa màu xanh da trời và màu xanh lá cây vì theo họ, vòm trời cũng tương tự như vòm lá nơi mà cả dân tộc trông cậy. Họ có một tục kết hôn và ngôn ngữ kỳ lạ được gọi là chế độ ngoại hôn ngôn ngữ: bạn phải lấy một người nói ngôn ngữ khác. Điều này bắt nguồn từ quá khứ xa xưa, mang đến điều thú vị là trong những căn nhà dài, nơi có 6 hoặc 7 ngôn ngữ được nói, nhờ chế độ hôn nhân đặc biệt, bạn sẽ không bao giờ nghe thấy một ai tập nói một thứ ngôn ngữ nào. Họ chỉ đơn giản là nghe và học nói theo. Hay, một trong những bộ tộc thú vị nhất mà tôi từng sống, bộ tộc Waorani ở Đông Bắc Ecuador, một bộ tộc lần đầu tiên tiếp xúc một cách hòa bình với thế giới bên ngoài vào năm 1958. Năm 1957, 5 người truyền giáo đã cố gắng tiếp xúc nhưng đã có một sai lầm nghiêm trọng. Họ thả xuống từ trên không những bức ảnh 8 x 10 của mình theo cách mà chúng ta vẫn cho là cử chỉ thân thiện, mà quên mất rằng những con người của rừng mưa nhiệt đới này chưa từng thấy cái gì 2 chiều trong đời. Họ nhặt những tấm ảnh này trên đất, cố gắng nhìn phía sau những khuôn mặt này để tìm ra hình dạng, nhưng không tim thấy gì và kết luận rằng đây là những lá bài gọi tên từ quỷ sứ, do vậy họ đã đâm 5 nhà truyền giáo này đến chết. Tuy nhiên, bộ tộc Waorani không chỉ đâm người ngoài. Họ còn đâm lẫn nhau. 54% cái chết của họ là do đâm nhau bằng giáo. Chúng ta hãy cũng lật lại phả hệ 8 đời, và chúng ta thấy rằng có 2 trường hợp chết tự nhiên và khi chúng ta hỏi dồn họ một chút về vấn đề này, họ thừa nhận rằng một trong những người bạn đã trở nên quá già và đằng nào họ cũng chết già nên chúng ta đâm họ trước còn hơn. (Cười) Nhưng cùng lúc đó họ cũng có một tri thức tuyệt vời về rừng nhiệt đới. Những người thợ săn của bộ tộc có thể ngửi thấy mùi nước tiểu của động vật trong phạm vi 40 bước và cho bạn biết đó là loài động vật nào. Trong những năm đầu của thập niên 80, tôi đã từng có một bài tập thú vị do giáo sư của tôi ở ĐH Harvard yêu cầu nếu như tôi muốn đến Haiti, tìm hiểu xã hội bí mật là nền móng cho sức mạnh của Duvalier và Tonton Macoutes, và tìm hiểu chất độc được sử dụng để tạo ra những thây ma. Và để tìm hiểu mọi chuyện, tất nhiên, tôi phải hiểu đôi chút về niềm tin đáng chú ý này của Vodoun, và Voodoo không phải là một tà thuật. Trái lại, nó là một nhân sinh quan siêu hình phức tạp. Nó thật thú vị. Nếu tôi yêu cầu các bạn kể tên những tôn giáo vĩ đại nhất trên thế giới bạn sẽ trả lời thế nào? Thiên chúa Giáo, đạo Hồi, Phật giáo, đạo Do Thái, v.v. Vẫn luôn có một lục địa còn lại ngoài kia, có một giả tưởng cho rằng Phi Châu, vùng Sahara không có tín ngưỡng tôn giáo. Vâng, tất nhiên, họ có và Voodoo đơn giản chỉ là một sản phẩm kết tinh của những ý tưởng tôn giáo uyên thâm đã trải qua giai đoạn nô lệ đầy bi kịch của cộng đồng Do Thái. Nhưng, điều làm cho Voodoo thú vị chính là mối quan hệ tồn tại giữa người sống và người chết. Theo đó, người sống sinh ra những linh hồn. Những linh hồn này có thể hiển linh từ dưới Dòng nước vĩ đại, đáp lại nhịp của các vũ điệu để trong một phút nào đó nó sẽ thay thế linh hồn của người sống, trong khoảnh khắc tỏa sáng ngắn ngủi ấy, thầy tu trở thành thần thánh. Đó là lý do tại sao những phù thủy Voodoo nói rằng "Những người da trắng các anh đi đến nhà thờ và nói về Chúa. Chúng tôi nhảy múa trong đền thờ và trở thành Thần." Và bởi vì các anh bị chiếm hữu, bị dẫn dắt bởi các linh hồn, Làm sao các anh có thể gặp nguy hiểm? Do đó các bạn có thể thấy từ những minh họa này: Các thầy tu Voodoo ở trong trạng thái xuất thần tay cầm than hồng đang cháy mà không sao, một ví dụ khá thú vị cho thấy khả năng của trí óc có thể ảnh hưởng tới cơ thể chứa nó khi trí óc trong trạng thái hưng phấn cực độ. Hiện giờ, trong số tất cả các dân tộc tôi từng sống cùng, dân tộc đặc biệt nhất là Kogi sinh sống ở vùng Sierra Nevada de Santa Marta, phía Bắc Colombia. Hậu duệ của nền văn minh chuyên chế cổ đại từng chiếm vùng đồng bằng duyên hải Caribbean của Colombia trong giai đoạn mở đầu của cuộc chinh phạt, những người này đã phải rút lui vào trong một ngọn núi lửa bị cô lập sừng sững vươn cao phía trên vùng duyên hải Caribbean. Trong một lục đĩa đẩm máu, dân tộc này chưa bao giờ bị thống trị bởi người Tây Ban Nha. Cho đến nay, họ vẫn bị cai trị bởi thầy tu tế nhưng việc đào tạo thầy tu của họ cũng khá đặc biệt. Những thầy tu tương lai bị tách khỏi gia đình lúc còn 3,4 tuổi bị cô lập trong thế giới của bóng tối trong những căn nhà bằng đá nằm giữa lòng của các dòng sông băng trong suốt 18 năm ròng 2 chu kỳ 9 năm được chọn một cách kỹ lưởng để mô phỏng 9 tháng thai nghén nằm trong bụng mẹ, giờ đây họ lại trải qua giai đoạn biến hóa trong bụng của Mẹ vĩ đại. Và trong suốt thời gian này, họ hấp thụ những giá trị của xã hội mình, những giá trị để duy trì lời cầu nguyện từ các tín đồ và chỉ những tín đồ của họ mới là người duy trì vũ trụ -- chúng ta vẫn gọi là cân bằng sinh thái. Và ở cuối giai đoạn khởi đầu lạ lùng này, một ngày họ đột nhiên được đưa ra ngoài và lần đầu tiên trong đời, ở tuổi 18, họ nhìn thấy mặt trời mọc. Và trong giây phút huy hoàng đó nhận thấy những ánh sáng đầu tiên ngập tràn khung cảnh đẹp tuyệt vời, đột nhiên mọi thứ họ học trong bóng tối được khẳng định trong huy hoàng. Và vị thầy tu bước lại và nói, "Con thấy chưa? Nó chính là những gì ta đã nói với con. Nó rất đẹp. Và con phải bảo vệ nó." Họ tự gọi mình là những người anh lớn và họ nói chúng ta, những người em nhỏ, là những người chịu trách nhiệm về sự hủy diệt của thế giới. Hiện giờ, mức độ nhận thức trở nên rất quan trọng. Mỗi khi chúng ta nghĩ về những cảnh vật và con người bản địa, chúng ta có thể lấy dẫn chứng về Rousseau và những thông tin lệch lạc của tầng lớp thượng lưu độc ác, nói đơn giản là sự phân biệt chủng tộc, hoặc chúng ta có thể lấy dẫn chứng về Thoreau và nói rằng những con người này sống thực tế hơn chúng ta. Vâng, những người bản địa không hề ủy mị cũng như yếu đuối vì lòng hoài cổ. Không có nhiều chỗ cho cả 2 ở trong những đầm lầy sốt rét vùng Asmat trong những cơn gió rét vùng Tibet, qua thời gian và những nghi lễ, họ tạo ra sự thần bí truyền thống của Trái Đất nền tảng của những thần bí này không phải là sự tồn tại của con người gắn với nó, mà ở một mức độ nhận thức tinh vi hơn: rằng bản thân Trái Đất chỉ có thể tồn tại Khi nó tồn tại trong nhận thức của con người. Giờ thì điều đó có nghĩa là gì? Điều đó có nghĩa là một đứa trẻ ở vùng núi Andes được nuôi nấng, dậy dỗ tin tưởng rằng ngọn núi này là thần Apu™ sẽ hướng dẫn định mệnh của chúng đứa trẻ sẽ là một con người hoàn toàn khác và có mối quan hệ hoàn toàn khác với ngọn núi nơi mà nó sinh sống so với một đứa trẻ ở Montana được nuôi dậy tin tưởng rằng ngọn núi là một đống đá sẵn sằng được khai thác. Dù đó là một nơi ở của một linh hồn hay một đống quặng thì cũng chẳng liên quan gì. Điều thú vị ở đây là sự ẩn dụ định nghĩa mối quan hệ giữa cá nhân và thế giới tự nhiên. Tôi lớn lên ở vùng rừng núi British Columbia và được dạy rằng những khu rừng tồn tại để bị đốn hạ Điều đó biến tôi thành một con người khác so với những người bạn ở Kwakiutl những người tin rằng những khu rừng là nơi ở của thần Hukuk và một phần của thiên đàng và tin rằng những linh hồn ăn thịt người sống tại điểm cực Bắc, đã tham gia vào thuở hình thành Hamatsa Bây giờ, nếu bạn xem xét ý kiến cho rằng những nền văn hóa này sẽ tạo ra những sự thật khác nhau, bạn sẽ bắt đầu hiểu một số phát hiện đặc biệt của họ. Hãy nhìn vào cái cây này. Đây là một bức ảnh tôi chụp ở vùng Tây Bắc Amazone tháng 4 vừa qua. Đây là cây vông đồng ayahuasca mà rất nhiều người trong số các bạn đã từng nghe tới, loài cây dùng để cúng lễ trong nghi lễ của các pháp sư. Điều tạo nên sự thú vị của loài cây ayahuasca này không phải là thành phần dược chất mạnh mẽ, mà chính là quá trình điều chế. Nó được làm từ hai nguồn khác nhau. Một mặt, đây là loài dây leo gỗ mà trong đó có rất nhiều beta-carbolines harmine, harmonline, và một ít chất gây ảo giác. Nếm thử một chút cây leo sẽ có một ít khói xanh mờ ngấm vào tâm trí bạn, tuy nhiên cây leo sẽ được trộn với lá của cây bụi thuộc họ café có tên gọi Psychotria viridis. Loại cây này có chứa một ít tryptamines cực mạnh, rất gần với chất serotonin, dimethyltryptamine-5, methoxydimethyltryptamine trong não. Nếu bạn đã từng chứng kiến người Yanomami hít chất này qua mũi, chất này được làm từ rất nhiều loại còn có methoxydimethyltryptamine, khi hít sẽ có cảm giác giống như bị bắn khỏi họng súng trường nhìn thấy những bức họa phong cách Baroque và đáp xuống biển tích điện. (Cười) Nó không hề làm méo sự thật; mà làm tan rã sự thật. Trên thực tế, tôi đã từng tranh luận với giáo sư của mình, ông Richard Evan Shultes -- người đã từng tạo ra thời kỳ ảo giác với việc phát minh ra loại nấm kỳ diệu ở Mexico những năm 1930. Tôi đã từng cho rằng bạn không thể xếp các loại tryptamines như chất gây ảo giác bởi vì tại thời điểm bạn chịu ảnh hưởng của thuốc không còn có ai ở nhà nữa để trải nghiệm ảo ảnh. (Cười) Nhưng một điều về các loại tryptamines này là không thể uống chúng bởi chúng sẽ bị trung hòa bởi một loại enzyme tồn tại tự nhiên trong ruột người có tên gọi monoamine oxidase. Chúng chỉ có thể có tác dụng nếu được uống cùng với một số loại hóa chất làm biến đổi MAO. Và điều kỳ diệu là chất beta-carbolines được tìm thấy trong loại dây leo đó đều là chất ức chế hoàn toàn MAO để tăng khả năng cho tryptamine. Do đó nếu bạn có tự hỏi một câu. Làm thế nào trong cả quần thực vật gồm hơn 80.000 loại cây khác nhau, những người này lại có thể tìm ra 2 loại cây chẳng liên quan gì về mặt hình thái vậy mà khi liên kết với nhau, lại tạo ra một phiên bản sinh hóa mà xét một cách tổng thể còn lớn hơn tổng các thành phần? Vâng, chúng ta sẽ sử dụng lối nói ẩn dụ, phương pháp loại trừ, có vẻ như vô nghĩa, bởi nếu bạn hỏi người Ấn Độ, họ sẽ nói, "Cây cỏ nói cho chúng tôi biết." Vậy, điều đó có nghĩa là gì? Bộ tộc này, những người Cofan, có tổng cộng 17 loại ayahuasca khác nhau, mỗi loại này ở trong rừng lại rất khác nhau, và tất cả các loại này dưới mắt quan sát của chúng ta đều được coi là một loài. Và sau đó bạn hỏi họ làm thế nào để phân loại và họ sẽ nói, "Tôi nghĩ anh biết chút ít về thực vật. Ý của tôi là, anh có biết chút gì không?" Và tôi trả lời, "Không." Vâng, vậy anh phải lấy từng loại trong 17 loại vào mỗi tối trăng tròn, mỗi loại sẽ hát cho anh nghe một bài hát khác. Điều này sẽ không giúp bạn có bằng tiến sĩ ở ĐH Harvard, nhưng nó thú vị hơn nhiều so với việc đếm nhị hoa. Bây giờ, (Vỗ tay) vấn đề -- vấn đề là ngay cả khi chúng ta đồng cảm với hoàn cảnh khó khăn của những người bản địa coi họ là kỳ quặc và đa dạng ở khía cạnh nào đó đã làm chậm lịch sử vì thế giới thực sự, thế giới của chúng ta, vẫn tiếp tục vận động. Vâng, sự thật là thế kỷ 20, 300 năm nữa, sẽ không được nhớ đến vì các cuộc chiến tranh hay những cuộc cách mạng công nghệ, kỷ nguyên mà chúng ta đã sống, dù chủ động tham gia hoặc chấp nhận một cách bị động, sẽ được nhớ đến với sự mất mát to lớn của cả sự đa dạng sinh học lẫn đa dạng văn hóa trên hành tinh này. Đến nay, vấn đề vẫn chưa được thay đổi. Tất cả các nền văn hóa trải qua thời gian đều tham gia vào điệu nhảy với nhiều triển vọng của cuộc sống. Và vấn đề không phải là công nghệ. Những người Ấn Độ Sioux vẫn là người Sioux khi họ từ bỏ cung tên cũng giống như người Mỹ vẫn là người Mỹ ngay cả khi anh ta từ bỏ ngựa và xe độc mã. Thay đổi hay công nghệ không đe dọa đến sự hợp nhất của sinh quyển dân tộc. Đó là quyền lực. Bộ mặt trần trụi của sự thống trị. Và khi bạn nhìn khắp thế giới, bạn nhận ra rằng đó không phải là những nên văn hóa sinh ra để biết mất. Đó là những con người đang sống nhưng bị làm cho không còn tồn tại bởi những lực lượng có thể nhận biết mà nằm ngoài giới hạn thích nghi của họ. Đó có thể là sự tàn phá rừng quá mức ở quê hương của những người Penan -- một bộ tộc du mục ở Đông Nam Á, từ Sarawak -- một bộ tộc sống tự do trong những khu rừng mãi tới một thế hệ trước, giờ đây phải chịu cảnh làm nô lệ và bán dâm trên bờ sông, nơi bạn có thể thấy con sông đang trở nên bẩn thỉu vì nghẽn bùn điều đó có vẻ như đã mang một nửa bộ tộc Borneo đến biển Nam Hải Trung Quốc, nơi những tàu chở hàng Nhật Bản đã chờ sẵn để xếp những khúc gỗ thô mới đốn hạ từ rừng vào kho hàng. Hay trong trường hợp của bộ tộc Yanomami, dịch bệnh xuất hiện, cùng với việc phát hiện ra vàng. Hay nếu chúng ta đến với vùng núi Tibet, nơi tôi đã thực hiện rất nhiều nghiên cứu trong thời gian gần đây, bạn sẽ thấy một bộ mặt trần trụi của sự thống trị chính trị. Như bạn biết, sự diệt chủng, xóa sổ hoàn toàn một dân tộc về mặt sinh học bị lên án trên toàn thế giới, nhưng việc xóa sổ một dân tộc, bằng cách phá hủy cách sống của con người, lại không bị kết án, mà thậm chí còn được hoan nghênh như một phần của chiến lược phát triển. Và bạn sẽ không thể hiểu nổi nỗi đau của người Tibet cho đến khi bạn trải qua nó dưới lòng đất. Tôi đã từng đi 6.000 từ Thành Đô phía Tây Trung Quốc qua Đông Nam Tibet tới Lhasa với một đồng nghiệp trẻ, và chỉ khi tới Lhasa tôi mới hiểu sự thật đằng sau những con số thống kê mà các bạn vẫn hay nghe. 6.000 điểm kỷ niệm đã biến thành tro bụi. 1,2 triệu người đã chết trong chiến tranh giai đoạn Cải cách Văn hóa. Bố của người thanh niên này đã bị cho là Ban Thiền Lạt Ma. Điều đó có nghĩa rằng ông bị giết ngay tức khắc ngay khi Trung Quốc xâm lược. Chú của anh bỏ chạy cùng sự tôn thờ của cộng đồng Do Thái đưa cả dân tộc tới Nepal. Mẹ anh đã bị tống giam như một cái giá -- phải trả cho tội giàu có. Bản thân anh cũng bị tống vào ngục khi mới chỉ 2 tuổi và phải ấn nấp dưới đuôi váy của chị gái bởi vì chị không thể chịu được cảnh sống mà không có anh. Người chị gái có việc làm dũng cảm ấy đã bị tống vào trại cải tạo. Một ngày kia cô vô tình dẫm phải băng tay của Mao Trạch Đông, và vì sự vi phạm đó, cô phải chịu án 7 năm khổ sai. Nỗi đau của những người Tibet là không thể chịu đựng được, nhưng tinh thần bất khuất của họ thất đáng chú ý. Và cuối cùng, nó dẫn đến một lựa chọn. Chúng ta muốn sống trong một thế giới đơn sắc buồn tẻ hay muốn hòa mình trong một thế giới đa dạng, đa sắc màu? Maragret Mead, nhà nhân chủng học vĩ đại, trước khi chết đã từng nói rằng sự sợ hãi lớn nhất của bà là khi chúng ta tiến tới thế giới quan vô định này chúng ta không chỉ thấy toàn bộ óc tưởng tượng của con người đã thu hẹp tới một mức tư duy nhỏ hẹp hơn, mà còn thấy chúng ta tỉnh dậy sau một giấc mơ hoàn toàn quên rằng còn có những khả năng khác. Và thật xấu hổ khi nhớ rằng giống loài của chúng ta, có lẽ, đã tồn tại 600.000 năm. Cách mạng đồ đá đã mang lại cho chúng ta nông nghiệp, cũng là lúc chúng ta phụ thuộc vào hạt giống, bài thơ của những pháp sư đã được thay thế bởi bài cúng tế của những thầy tu tế, chúng ta đã tạo ra sự chênh lệch giai cấp -- từ cách đây 10.000 năm. Thế giới công nghiệp hiện đại như chúng ta biết cũng chỉ mới gần 300 tuổi. Giờ đây, lịch sử nông cạn đó không hề cho tôi thấy rằng chúng ta có tất cả các câu trả lời cho mọi thử thách mà chúng ta sẽ gặp phải trong thiên niên kỷ này. Khi hỏi những nền văn hóa của thế giới về ý nghĩa của loài người, họ sẽ trả lời với 10.000 giọng nói khác nhau. Và trong bản hòa ca đó, tất cả chúng ta sẽ tái phát hiện khả năng tồn tại của mình; một dòng giống hoàn toàn làm chủ ý thức, có nhận thức đầy đủ để bảo đảm rằng tất cả con người và thực vật sẽ tìm ra cách để phát triển. Và có những khoảnh khắc tuyệt vời của sự lạc quan. Đây là một bức ảnh tôi chụp ở điểm cực bắc Đảo Baffin khi tôi đang đi săn kỳ lân với một số người Inuit, và người đàn ông này, Olaya, đã kể cho tôi một câu chuyện tuyệt vời về ông nội ông. Chính quyền Canada không phải lúc nào cũng tốt với người dân Inuit, và trong suốt những năm 1950, để thiết lập sự thống trị, chúng ta đã ép họ vào những khu định cư. Ông nội của người đàn ông này đã từ chối không đi. Gia đình, vì muốn ông cùng đi, đã lấy tất cả vũ khí và dụng cụ của ông. Bây giờ, chắc chắn các bạn phải hiểu rằng người Inuit không sợ cái lạnh; họ lợi dụng nó. Phần bánh trượt xe trượt tuyết của họ vốn được làm bằng cá bọc trong da tuần luộc caribou. Do đó, ông của người đàn ông này không phải chịu sự đe dọa của đêm Bắc cực giá rét hay bão tuyết thổi qua. Ông chỉ đơn giản là trượt ra ngoài, tụt chiếc quần da hải cẩu xuống và đại tiện vào tay. Và khi đống phân bắt đầu đông lại, ông nặn nó thành hình một thanh gươm. Ông nhổ một ít nước bọt vào cán con dao bằng phân và cuối cùng nó cũng đông cứng lại, ông xẻ thịt một con chó bằng con dao này. Ông lột da con chó và làm một bộ yên cương, lấy xương con chó và tạo thành một chiếc xe trượt, đóng yên cương một con chó gần đấy, và biết mất khỏi tảng băng nổi, với con dao phân dắt ở thắt lưng. Và đi khỏi mà không cần mang theo thứ gì. (Cười) Và điều này, theo nhiều cách khác nhau, (vỗ tay) là biểu tượng đấu tranh của người Inuit và tất cả những bộ tộc trên thế giới. Vào tháng 4 năm 1999, chính quyền Canada đã phải trao trả hoàn toàn quyền tự trị cho người Inuit trao cho họ diện tích đất lớn hơn California và Texas cộng lại. Đó là quê hương mới của chúng ta. Nó có tên gọi Nunavut. Đó là một lãnh thổ độc lập. Họ kiểm soát tất cả các nguồn tài nguyên khoáng sản. Một ví dụ thú vị về cách một quốc gia có thể vươn tới -- tìm cách bồi thường cho người dân của họ. Và cuối cùng, tôi nghĩ đã quá rõ ràng với ít nhất là tất cả chúng ta những người đến từ vùng xa xôi hẻo lánh trên hành tinh, để nhận ra rằng chúng không hề xa xôi hẻo lánh chút nào. Đó là quê hương của một ai đó. Họ đại diện cho một nhánh của trí tưởng tượng con người đã có từ rất lâu. Và với tất cả chúng ta, ước mơ của những đứa trẻ này, cùng giống như ước mơ của những đứa con chúng ta, trở thành một phần của hy vọng Do đó, điều chúng tôi đang cố gắng làm trên kênh National Geographic, chỉ là, chúng tôi tin rằng các chính trị gia chẳng làm được gì cả. Chúng tôi nghĩ rằng cuộc luận chiến -- (vỗ tay) Chúng tôi nghĩ rằng cuộc luận chiến không thuyết phục, nhưng chúng tôi nghĩ rằng kể chuyện có thể thay đổi thế giới, và chúng tôi có thể là những nhà kể chuyện hay nhất thế giới. Chúng tôi có 35 triệu lượt truy cập trên website mỗi tháng. 156 quốc gia tiếp sóng kênh truyền hình của chúng tôi. Hàng triệu người đón đọc tạp chí của chúng tôi. Và chúng tôi đang thực hiện một loạt chuyến đi tới sinh quyển dân tộc nơi chúng tôi mang các khán giả đến với những điều kỳ diệu của văn hóa mà họ không thể không ngạc nhiên bởi những gì họ thấy, và hy vọng rằng, do đó, dần dần hiểu rõ, từng bước, bản chất của nhân chủng học: rằng thế giới này xứng đáng tồn tại một cách đa dạng, rằng chúng ta cần tìm cách để sống trong một thế giới đa dạng đa văn hóa nơi trí tuệ của tất cả mọi người có thể cống hiến cho tập thể nhân loại chúng ta. Xin cảm ơn rất nhiều. (vỗ tay)