WEBVTT 00:00:00.000 --> 00:00:03.727 Chào các bạn. Trong bài giảng lần này, chúng ta sẽ đề cập đến cách giải quyết vấn đề. 00:00:03.727 --> 00:00:08.958 Và chúng ta sẽ tìm hiểu vai trò của các cách tiếp cận khác nhau trong việc tìm lời giải cho các vấn đề. 00:00:08.958 --> 00:00:10.561 Khi bạn nghĩ về một vấn đề, 00:00:10.561 --> 00:00:12.688 cách tiếp cận là cách bạn biểu diễn nó. 00:00:12.688 --> 00:00:16.636 Trong bài giảng trước, chúng ta đã nói về mô hình dãy núi. 00:00:16.636 --> 00:00:19.011 Mô hình dãy núi là một cách biểu diễn 00:00:19.011 --> 00:00:21.877 các lời giải theo trục ngang này 00:00:21.877 --> 00:00:26.571 và giá trị của chúng theo trục đứng. 00:00:26.571 --> 00:00:29.737 Đây là cách mô tả ẩn dụ 00:00:29.737 --> 00:00:33.110 việc giải quyết một vấn đề diễn ra như thế nào. 00:00:33.125 --> 00:00:36.751 Đó là tìm các điểm tốt nhất trên dãy núi này. 00:00:36.751 --> 00:00:39.800 Bây giờ chúng ta sẽ chuẩn hóa định nghĩa này, 00:00:39.800 --> 00:00:43.066 và một phần mục đích của bài giảng này là hiểu vấn đề một khoa học, 00:00:43.066 --> 00:00:45.248 và rõ ràng hơn. 00:00:45.248 --> 00:00:49.403 Vậy tôi sẽ chuyển hình ảnh ẩn dụ dãy núi này thành một mô hình chuẩn. 00:00:49.403 --> 00:00:50.499 Chúng ta làm như thế nào? 00:00:50.499 --> 00:00:54.774 Đầu tiên, chúng ta sẽ định nghĩa cách tiếp cận là gì. 00:00:54.774 --> 00:00:56.724 Chúng ta phát biểu hình ảnh ẩn dụ này theo một cách toán học. 00:00:56.724 --> 00:00:59.022 Cách tiếp cận là 00:00:59.022 --> 00:01:01.498 biểu diễn toàn bộ các phương án có thể. 00:01:01.498 --> 00:01:05.389 Giống như một cách mã hóa tập các lời giải của một bài toán. 00:01:05.389 --> 00:01:08.870 Khi chúng ta đã mã hóa được tập hợp các phương án đó, 00:01:08.870 --> 00:01:13.399 chúng ta sẽ tạo ra mô hình dãy núi bằng cách gán một giá trị nào đó cho mỗi phương án này. 00:01:13.399 --> 00:01:16.358 Kết quả sẽ là một dãy núi như bạn đã thấy lúc trước. 00:01:16.358 --> 00:01:19.806 Rất nhiều người trong chúng ta đã quen với các cách tiếp cận, 00:01:19.806 --> 00:01:21.409 kể cả khi chúng ta không biết về nó. 00:01:21.409 --> 00:01:22.567 Tôi sẽ đưa ra một vài ví dụ. 00:01:22.567 --> 00:01:24.534 Bạn có nhớ toán sơ cấp không? 00:01:24.534 --> 00:01:27.675 Chúng ta đã học về cách biểu diễn một điểm trên hệ trục tọa độ. 00:01:27.675 --> 00:01:29.884 Có 2 cách biểu diễn cơ bản. 00:01:29.884 --> 00:01:32.547 Cách thứ nhất là hệ tọa độ Descartes. 00:01:32.547 --> 00:01:34.774 Cho một điểm, chúng ta biểu diễn nó bằng 00:01:34.774 --> 00:01:38.755 2 giá trị X và Y trên mặt phẳng. 00:01:38.755 --> 00:01:40.379 Chẳng hạn, đây là 5 đơn vị, 00:01:40.379 --> 00:01:42.371 và điểm này có tọa độ là (5,2). 00:01:42.371 --> 00:01:45.894 5 đơn vị theo chiều X và 2 đơn vị theo chiều Y. 00:01:45.894 --> 00:01:48.715 Nhưng còn một cách biểu diễn khác, 00:01:48.715 --> 00:01:50.709 đó là hệ tọa độ cực. 00:01:50.709 --> 00:01:52.432 Chúng ta xem xét điểm này, 00:01:52.432 --> 00:01:54.936 Bán kính R là khoảng cách từ gốc tọa độ tới điểm đó, 00:01:54.936 --> 00:01:56.652 và một góc theta 00:01:56.652 --> 00:01:58.496 biểu diễn chúng ta cần di chuyển một góc bao nhiêu 00:01:58.496 --> 00:02:02.714 để chạm tới điểm đã mô tả. 00:02:02.714 --> 00:02:05.585 Vậy có 2 cách biểu diễn một điểm. 00:02:05.585 --> 00:02:07.652 X và Y, R và theta. 00:02:07.652 --> 00:02:09.688 Descartes và hệ tọa độ cực. 00:02:09.688 --> 00:02:11.360 Cách nào tốt hơn? 00:02:11.360 --> 00:02:12.814 Câu trả lời là tùy trường hợp. 00:02:12.814 --> 00:02:14.088 Tôi sẽ giải thích lí do. 00:02:14.088 --> 00:02:16.007 Chẳng hạn, nếu tôi muốn biểu diễn đường này. 00:02:16.007 --> 00:02:19.542 Khi đó, hệ tọa độ Descartes là lựa chọn tốt hơn, 00:02:19.542 --> 00:02:23.632 vì tôi chỉ cần nói: Y = 3 và X từ 2 đến 5. 00:02:23.632 --> 00:02:25.061 Rất đơn giản. 00:02:25.061 --> 00:02:28.632 Nhưng nếu tôi cần mô tả cung này. 00:02:28.632 --> 00:02:29.968 Trong trường hợp đó, 00:02:29.968 --> 00:02:32.728 sử dụng hệ tọa độ Descartes trở nên khá phức tạp, 00:02:32.728 --> 00:02:34.864 tốt hơn là nên dùng hệ tọa độ cực, 00:02:34.864 --> 00:02:35.835 vì bán kính là cố định. 00:02:35.835 --> 00:02:38.713 Và tôi chỉ cần cho bạn biết bán kính là bao nhiêu, 00:02:38.713 --> 00:02:39.738 đây là khoảng cách R, 00:02:39.738 --> 00:02:42.585 và góc theta dịch chuyển từ A đến B. 00:02:42.585 --> 00:02:44.656 Như vậy, kết quả phụ thuộc vào cái tôi cần mô tả. 00:02:44.656 --> 00:02:47.033 Nếu là một đường thẳng, tôi dùng hệ tọa độ Descartes. 00:02:47.033 --> 00:02:50.151 Nếu là cung, tôi sẽ dùng hệ tọa độ cực. 00:02:50.151 --> 00:02:52.384 Do đó, cách tiếp cận phụ thuộc vào bài toán. 00:02:52.384 --> 00:02:54.949 Bây giờ, chúng ta sẽ giải thích 00:02:54.949 --> 00:02:58.683 cách tiếp cận giúp chúng ta tìm lời giải của một bài toán như thế nào 00:02:58.683 --> 00:03:01.732 và tại sao mà cách tiếp cận có thể giúp chúng ta tạo ra đột phá? 00:03:01.732 --> 00:03:04.472 Trong lịch sử khoa học, có rất nhiều bước ngoặt: 00:03:04.472 --> 00:03:06.288 Newton, 00:03:06.288 --> 00:03:07.801 với thuyết vạn vật hấp dẫn 00:03:07.801 --> 00:03:11.485 đó thực ra là những cách tiếp cận mới cho các vấn đề cũ. 00:03:11.485 --> 00:03:13.296 Hãy lấy một ví dụ. 00:03:13.296 --> 00:03:16.968 Mendeleev đã phát hiện ra bảng tuần hoàn, 00:03:16.968 --> 00:03:20.409 và trong bảng tuần hoàn, ông biểu diễn các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử. 00:03:20.409 --> 00:03:22.440 Ông đã đặt chúng vào các cột khác nhau. 00:03:22.440 --> 00:03:26.114 Bằng việc sắp xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử, 00:03:26.114 --> 00:03:27.784 Mendeleev đã tìm ra các quy luật. 00:03:27.784 --> 00:03:30.936 Tất cả kim loại nằm trên một cột, hay những thứ tương tự thế. 00:03:30.936 --> 00:03:33.002 Hãy nhớ lại môn hóa học một chút nhé. 00:03:33.002 --> 00:03:36.936 Bảng tuần hoàn thực chất là một cách tiếp cận: đó là một cách biểu diễn các nguyên tố. 00:03:36.936 --> 00:03:39.072 Mendeleev có thể biểu diễn các nguyên tố theo thứ tự abc. 00:03:39.072 --> 00:03:41.100 Nhưng cách này không có ý nghĩa gì. 00:03:41.100 --> 00:03:44.679 Biểu diễn bằng thứ tự abc sẽ không cho biết một quy luật nào cả. 00:03:44.679 --> 00:03:47.425 Trong khi biểu diễn bằng nguyên tử khối lại cho biết rất nhiều quy luật. 00:03:47.425 --> 00:03:50.859 Thực tế, khi Mendeleev sắp xếp 00:03:50.859 --> 00:03:53.862 tất cả các nguyên tố được phát hiện ra ở thời điểm đó theo nguyên tử khối, 00:03:53.862 --> 00:03:56.644 có những ô bị bỏ trống. 00:03:56.644 --> 00:03:59.155 Có một số nguyên tố bị thiếu. 00:03:59.155 --> 00:04:02.230 Về sau, các nguyên tố mới được tìm thấy là Scandi, Galli, và Germani. 00:04:02.230 --> 00:04:04.568 Chúng được tìm thấy sau 10 đến 15 năm sau, 00:04:04.568 --> 00:04:06.306 sau khi ông đã hoàn thành bảng tuần hoàn. 00:04:06.306 --> 00:04:08.944 Mọi người dựa vào đó và đã tìm ra các nguyên tố còn thiếu. 00:04:08.944 --> 00:04:11.056 Cách tiếp cận theo nguyên tử khối 00:04:11.056 --> 00:04:16.056 đã trở nên cực kì hiệu quả khi chúng ta nghiên cứu về nguyên tố hóa học. 00:04:17.148 --> 00:04:19.314 Chúng ta sử dụng bảng tuần hoàn mọi lúc. 00:04:19.314 --> 00:04:20.912 Khi bạn gặp một vấn đề, 00:04:20.912 --> 00:04:23.671 bạn sẽ nhận ra bạn luôn sử dụng một vài cách tiếp cận để giải quyết nó. 00:04:23.671 --> 00:04:25.502 Giả sử bạn muốn thuê một người vào công ty của bạn. 00:04:25.502 --> 00:04:28.348 Bạn nhận được một chồng hồ sơ các ứng viên cho vị trí này. 00:04:28.348 --> 00:04:29.520 Và bạn nghĩ, 00:04:29.520 --> 00:04:32.004 tôi sẽ phân loại các ứng viên này ra sao? 00:04:32.004 --> 00:04:33.752 Giả sử có tới 500 ứng viên. 00:04:33.752 --> 00:04:36.847 Một phương án là bạn sắp xếp các hồ sơ theo điểm trung bình (GPA) 00:04:36.847 --> 00:04:39.604 Lấy điểm trung bình từ cao xuống thấp. 00:04:39.604 --> 00:04:40.781 Đó là một cách biểu diễn. 00:04:40.781 --> 00:04:44.679 Bạn thường sử dụng cách này nếu bạn cần một người có năng lực. 00:04:44.679 --> 00:04:47.520 Nhưng, bạn có thể lại cần người có kinh nghiệm. 00:04:47.520 --> 00:04:49.296 Trong trường hợp đó, bạn có thể sắp xếp 00:04:49.296 --> 00:04:53.248 chồng hồ sơ đó theo độ dày của chúng. 00:04:53.248 --> 00:04:56.361 Những hồ sơ dày tương ứng với những người 00:04:56.361 --> 00:04:57.560 đã trải qua rất nhiều công việc và có kinh nghiệm. 00:04:57.560 --> 00:05:00.607 Bạn cũng có thể cần người có tính sáng tạo. 00:05:00.607 --> 00:05:01.601 00:05:01.601 --> 00:05:05.211 Vậy thì, bạn có thể đặt những hồ sơ sáng tạo nhất sang một bên, 00:05:05.211 --> 00:05:08.120 và những hồ sơ kém sáng tạo hơn sang một bên khác. 00:05:08.120 --> 00:05:09.760 Đây là cách thứ ba để phân loại hồ sơ. 00:05:09.760 --> 00:05:11.609 Phụ thuộc vào nhu cầu tuyển dụng của bạn, 00:05:11.609 --> 00:05:12.900 phụ thuộc vào các ứng viên, 00:05:12.900 --> 00:05:14.720 bất kì ai cũng có thể trở thành vị trí mà bạn mong muốn. 00:05:14.720 --> 00:05:20.033 Vấn đề là cách tổ chức và phân loại hồ sơ. 00:05:20.033 --> 00:05:21.968 Với mỗi cách sắp xếp, 00:05:21.968 --> 00:05:22.993 00:05:22.993 --> 00:05:25.512 00:05:25.512 --> 00:05:27.176 thực chất đó là một cách tiếp cận. 00:05:27.176 --> 00:05:31.944 Và cách tiếp cận sẽ quyết định độ khó của vấn đề bạn cần giải quyết. 00:05:31.944 --> 00:05:33.420 Để tôi giải thích một chút. 00:05:33.420 --> 00:05:36.432 Hãy quay lại hình ảnh ẩn dụ về dãy núi. 00:05:36.432 --> 00:05:38.424 Khi dãy núi trở nên mấp mô, 00:05:38.424 --> 00:05:42.984 ý tôi là nó không chỉ có duy nhất một đỉnh 00:05:42.984 --> 00:05:45.009 mà có rất nhiều đỉnh. 00:05:45.009 --> 00:05:48.448 Bây giờ tôi sẽ chuẩn hóa khái niệm về đỉnh. 00:05:48.448 --> 00:05:50.315 Tôi làm như sau: 00:05:50.315 --> 00:05:52.568 Tôi sẽ định nghĩa cực đại địa phương. 00:05:52.568 --> 00:05:55.808 Cực đại địa phương là một điểm, 00:05:55.808 --> 00:05:57.784 mà lân cận của điểm này 00:05:57.784 --> 00:05:59.125 có giá trị thấp hơn nó. 00:05:59.125 --> 00:06:02.406 Cơ bản đó là một điểm có giá trị cục bộ là lớn nhất. 00:06:02.406 --> 00:06:04.807 Quay lại ví dụ về dãy núi, 00:06:04.807 --> 00:06:07.369 có 3 cực đại địa phương: 1, 2 và 3. 00:06:07.369 --> 00:06:10.351 Tại bất kì điểm nào trong số 3 điểm này, tôi rơi vào bế tắc. 00:06:10.351 --> 00:06:12.683 Phía bên trái hay bên phải 00:06:12.683 --> 00:06:14.843 đều không cho kết quả tốt hơn. 00:06:14.843 --> 00:06:18.934 Vậy thì, một cách tiếp cận tốt 00:06:18.934 --> 00:06:23.702 sẽ không có quá nhiều cực đại địa phương. 00:06:23.702 --> 00:06:27.583 Và ngược lại, một cách tiếp cận tồi sẽ sinh ra rất nhiều cực đại địa phương. 00:06:27.583 --> 00:06:29.397 Tôi sẽ đưa ra một ví dụ. 00:06:29.397 --> 00:06:31.090 Giả sử tôi cần lựa chọn sản xuất một loại kẹo. 00:06:31.090 --> 00:06:33.495 Nhiệm vụ của tôi là sản xuất một loại kẹo mới. 00:06:33.495 --> 00:06:39.376 Đội đầu bếp đã chế biến được rất nhiều mẫu khác nhau, 00:06:39.376 --> 00:06:41.121 và tôi cần lựa chọn mẫu tốt nhất. 00:06:41.121 --> 00:06:43.712 Tuy nhiên, có rất nhiều khả năng xảy ra, 00:06:43.712 --> 00:06:45.322 đến mức tôi không biết phải tiếp cận theo cách nào. 00:06:45.322 --> 00:06:49.145 Một phương án có thể là sắp xếp các thanh kẹo theo lượng calo. 00:06:49.145 --> 00:06:53.096 Sắp xếp các thanh kẹo theo hàm lượng calo có trong chúng. 00:06:53.096 --> 00:06:55.890 Theo cách này, có thể tôi có 3 cực đại địa phương. 00:06:55.890 --> 00:06:59.607 Cách tiếp cận này khá hợp lí. 00:07:00.645 --> 00:07:02.991 Nhưng cũng có thể, tôi sẽ sắp xếp các thanh kẹo 00:07:02.991 --> 00:07:05.559 theo thời gian mà tôi nhai chúng. 00:07:05.559 --> 00:07:07.174 00:07:07.174 --> 00:07:10.760 Thanh này có thể mất 2 phút để nhai, 00:07:10.760 --> 00:07:13.247 và thanh kia có thể mất tới 20 phút. 00:07:13.247 --> 00:07:17.016 Sử dụng thời gian nhai kẹo để phân loại có thể không phải cách tốt nhất. 00:07:17.016 --> 00:07:20.824 Kết quả là, mô hình dãy núi tôi nhận được có nhiều đỉnh hơn. 00:07:21.547 --> 00:07:25.409 Nhiều đỉnh hơn, tức là tôi sẽ gặp khó khăn hơn trong khi lựa chọn. 00:07:25.409 --> 00:07:28.976 Đó không phải một cách biểu diễn lời giải tốt 00:07:28.976 --> 00:07:30.804 Vậy cách tiếp cận này không thực sự tốt. 00:07:30.804 --> 00:07:36.001 Cách lí tưởng nhất sẽ là một mô hình chúng ta gọi là Đỉnh Phú Sĩ. 00:07:36.001 --> 00:07:38.047 Duy nhất chỉ có một đỉnh. 00:07:38.047 --> 00:07:39.807 Và dãy núi này được gọi là Núi Phú Sĩ. 00:07:39.807 --> 00:07:41.152 Nếu bạn đã từng đến Nhật Bản, 00:07:41.152 --> 00:07:42.629 bạn sẽ trông thấy hình ảnh đỉnh Phú Sĩ rất giống như thế này. 00:07:42.629 --> 00:07:44.944 Thực ra cũng không hẳn, trên đỉnh còn có tuyết. 00:07:44.944 --> 00:07:48.013 Nhưng hình dáng nói chung là một mũi nhọn. 00:07:48.013 --> 00:07:49.616 Nếu mô hình của bạn có dạng núi Phú Sĩ, 00:07:49.616 --> 00:07:51.128 và nếu bạn đang đừng tại một điểm, 00:07:51.128 --> 00:07:54.100 bạn chỉ cần leo lên theo một đường sẽ hướng tới đỉnh núi. 00:07:54.100 --> 00:07:55.936 Một dãy núi có duy nhất một đỉnh, tuyệt vời 00:07:55.936 --> 00:07:57.700 bởi vì vấn đề bạn cần giải quyết 00:07:57.700 --> 00:07:59.929 trở nên cực kì đơn giản. 00:08:01.160 --> 00:08:03.913 Tôi sẽ lấy một ví dụ nổi tiếng. 00:08:03.913 --> 00:08:06.007 00:08:06.007 --> 00:08:08.536 Ví dụ này xuất phát từ lí thuyết quản lý theo khoa học (hay chủ nghĩa Taylor) 00:08:08.536 --> 00:08:09.650 do Frederick Taylor xây dựng nên. 00:08:09.650 --> 00:08:12.487 Taylor đã giải quyết vấn đề về việc tính toán kích thước tối ưu của chiếc xẻng xúc than. 00:08:12.487 --> 00:08:15.450 Hãy nghĩ đến mô hình dãy núi mô tả kích thước xẻng. 00:08:15.450 --> 00:08:18.252 Theo trục này là kích thước. 00:08:18.883 --> 00:08:21.809 Và trục này là giá trị. 00:08:21.809 --> 00:08:23.384 Giá trị ở đây là gì? 00:08:23.384 --> 00:08:24.984 Không phải theo việc tôi sẽ bán được chiếc xẻng với giá bao nhiêu 00:08:24.984 --> 00:08:27.496 mà là năng suất mà chiếc xẻng có thể tạo ra. 00:08:27.496 --> 00:08:29.420 Giả sử chúng ta có một chiếc xẻng xúc than, 00:08:29.420 --> 00:08:30.474 hãy nghĩ 00:08:30.474 --> 00:08:33.396 với chiếc xẻng đó, một người có thể xúc được bao nhiêu kg than một ngày? 00:08:33.396 --> 00:08:35.441 Đây là hàm biểu diễn kích thước chiếc xẻng. 00:08:35.441 --> 00:08:37.896 Xuất phát từ điểm 0. 00:08:37.896 --> 00:08:39.690 Đây là kích thước của lòng xẻng. 00:08:39.690 --> 00:08:41.631 Nếu lòng xẻng có kích thước là 0, 00:08:41.631 --> 00:08:43.700 (chúng ta thường quen gọi nó là cái gậy) 00:08:43.700 --> 00:08:45.876 chúng ta không thể xúc được than. 00:08:46.384 --> 00:08:47.895 Một cái gậy không thể làm được gì trong trường hợp này. 00:08:47.895 --> 00:08:50.004 Nếu như tôi làm cho lòng xẻng to hơn, 00:08:50.004 --> 00:08:52.241 chẳng hạn như bằng kích thước của một chiếc thìa, 00:08:52.241 --> 00:08:53.693 chúng ta có thể xúc được một ít. 00:08:53.693 --> 00:08:55.984 Nếu chiếc xẻng càng ngày càng to ra, 00:08:55.984 --> 00:08:58.672 công nhân của tôi sẽ xúc được nhiều than hơn. 00:08:58.672 --> 00:09:02.616 Nhưng, đến một điểm nào đó, chiếc xẻng trở nên quá to 00:09:02.616 --> 00:09:04.953 và quá nặng. 00:09:04.953 --> 00:09:06.056 Công nhân sẽ cảm thấy mệt mỏi 00:09:06.056 --> 00:09:07.216 và năng suất sẽ giảm. 00:09:07.216 --> 00:09:08.460 Tiếp tục, năng suất càng ngày càng giảm 00:09:08.460 --> 00:09:11.898 cho đến khi chiếc xẻng trở nên quá to và quá nặng 00:09:11.898 --> 00:09:14.015 đến mức công nhân không thể nhấc nổi nó lên. 00:09:14.015 --> 00:09:14.905 nó cũng sẽ vô dụng như chiếc gậy vậy. 00:09:14.905 --> 00:09:20.828 Vậy nếu tôi chọn lượng than xúc được làm hàm biểu diễn kích thước của chiếc xẻng, 00:09:20.828 --> 00:09:23.441 tôi sẽ có mô hình núi Phú Sĩ, có duy nhất một đỉnh. 00:09:23.441 --> 00:09:24.604 Thật đơn giản để giải quyết vấn đề. 00:09:24.604 --> 00:09:29.542 Vậy nếu như chúng ta có thể mô tả các vấn đề khoa học theo cách này, 00:09:29.542 --> 00:09:33.943 hoặc chúng ta có thể biểu diễn các vấn đề mang tính kĩ thuật theo cách này, rồi leo dần lên đỉnh, 00:09:33.943 --> 00:09:36.568 về cơ bản được gọi là Chủ nghĩa Taylor. 00:09:36.568 --> 00:09:38.040 Ý tưởng là 00:09:38.040 --> 00:09:40.720 tìm ra các cực đại địa phương trên mô hình dãy núi. 00:09:40.720 --> 00:09:42.794 để tìm các lời giải tối ưu. 00:09:42.794 --> 00:09:45.733 Chúng ta chỉ có thể chắc chắn tìm ra đáp số tối ưu 00:09:45.733 --> 00:09:48.458 nếu chỉ có duy nhất một đỉnh trên mô hình dãy núi này. 00:09:48.613 --> 00:09:51.013 Nếu nó trông gồ ghề như thế này, 00:09:51.013 --> 00:09:52.411 Nếu mô hình giống như núi Phú Sĩ, cách tiếp cận của bạn là tốt. 00:09:52.411 --> 00:09:53.417 Nếu mô hình trở nên gồ ghề như thế này 00:09:53.417 --> 00:09:55.739 thì do bạn đã có một cách tiếp cận tồi, 00:09:55.739 --> 00:09:57.775 khi đó, nếu bạn leo lên đỉnh, 00:09:57.775 --> 00:10:00.565 bạn có thể gặp bế tắc ở bất kì chỗ nào. 00:10:00.596 --> 00:10:03.711 Tất nhiên, bạn sẽ mong muốn một mô hình như núi Phú Sĩ, 00:10:03.711 --> 00:10:07.674 trong trường hợp như cái xẻng này, mọi chuyện rất đơn giản. 00:10:07.674 --> 00:10:09.480 Tôi sẽ đưa ra thêm một ví dụ nữa. 00:10:09.480 --> 00:10:10.517 Một ví dụ rất thú vị. 00:10:10.517 --> 00:10:12.824 Đây là trò chơi tôi yêu thích có tên gọi “Tổng 15” 00:10:12.824 --> 00:10:14.736 do Herb Simon phát triển. 00:10:14.736 --> 00:10:17.561 Ông từng đoạt giải Nobel về kinh tế. 00:10:17.561 --> 00:10:19.827 “Tổng 15” được đưa ra để chứng tỏ 00:10:19.827 --> 00:10:22.501 vai trò của cách tiếp cận có ích lợi như thế nào, 00:10:22.501 --> 00:10:25.157 tại sao có những cách tiếp cận làm vấn đề trở nên đơn giản 00:10:25.157 --> 00:10:26.695 như đỉnh Phú Sĩ 00:10:26.695 --> 00:10:29.048 hoặc có những cách làm vấn đề trở nên phức tạp. 00:10:29.048 --> 00:10:31.313 Trò chơi “Tổng 15” diễn ra như sau: 00:10:31.313 --> 00:10:34.863 Có 9 quân bài từ 1 đến 9 được đặt trên bàn. 00:10:34.863 --> 00:10:36.769 9 quân bài trước mặt bạn. 00:10:36.769 --> 00:10:37.946 Có 2 người chơi. 00:10:37.946 --> 00:10:41.823 Họ luân phiên nhau lấy từng quân bài, 00:10:41.823 --> 00:10:44.897 cho đến khi không còn quân bài nào, nhưng trò chơi có thể kết thúc sớm hơn. 00:10:45.072 --> 00:10:50.409 Bất cứ lúc nào một người kết thúc lượt của mình, nếu người đó cầm trên tay 3 quân bài có tổng đúng bằng 15, anh ta thắng. 00:10:50.670 --> 00:10:51.923 Luật chơi rất đơn giản. 00:10:51.923 --> 00:10:54.448 9 quân bài. Lấy luân phiên. 00:10:54.448 --> 00:10:58.275 3 quân có tổng bằng 15 là thắng. 00:10:58.275 --> 00:10:59.824 Tôi sẽ minh họa một lần chơi 00:10:59.824 --> 00:11:01.528 giữa 2 người 00:11:01.528 --> 00:11:03.892 ta gọi họ là Paul và David. 00:11:03.907 --> 00:11:05.251 Paul chơi trước. Bạn thường nghĩ rằng 00:11:05.251 --> 00:11:07.913 chọn quân số 5 sẽ là lí tưởng để bắt đầu. 00:11:07.913 --> 00:11:11.604 Nhưng Paul đưa ra một quyết định kì lạ. Cậu chọn quân bài 4. 00:11:11.604 --> 00:11:14.402 Đến lượt David, cậu chọn 5. 00:11:14.402 --> 00:11:16.844 Paul lấy quân 6. 00:11:16.844 --> 00:11:18.920 Thật là lạ, 00:11:18.920 --> 00:11:22.872 bởi 4 + 5 + 6 = 15 (trong khi 5 đã thuộc về David) 00:11:22.872 --> 00:11:25.832 Có vẻ như không còn cách nào để Paul thắng. 00:11:25.832 --> 00:11:28.234 David cảm thấy khó hiểu. 00:11:28.234 --> 00:11:30.255 Cậu lấy quân 8. 00:11:30.255 --> 00:11:34.505 Để ý rằng 2 + 5 + 8 = 15, 00:11:34.520 --> 00:11:37.712 nên Paul phải lấy quân 2. 00:11:37.712 --> 00:11:39.363 Anh ta đã lấy quân 2. 00:11:39.363 --> 00:11:41.530 Chuyện gì xảy ra tiếp theo? 00:11:41.530 --> 00:11:43.222 2 + 4 = 6 00:11:43.222 --> 00:11:45.068 nên David sẽ thua nếu cậu không lấy quân 9. 00:11:45.791 --> 00:11:47.563 Nhưng 2 + 6 = 8 00:11:47.563 --> 00:11:49.606 nên David sẽ thua nếu cậu không lấy quân 7. 00:11:49.606 --> 00:11:52.148 Vậy là Paul thắng 00:11:52.148 --> 00:11:55.421 bất chấp lựa chọn của David ở lượt kế tiếp. 00:11:55.544 --> 00:11:57.002 Thật khó hiểu, phải không? 00:11:57.002 --> 00:11:58.568 Khi người thiết kế trò chơi là một người đã đoạt giải Nobel, 00:11:58.568 --> 00:12:00.878 bạn có thể tưởng tượng sẽ có rất nhiều chiến thuật trong trò chơi này. 00:12:00.878 --> 00:12:05.502 Bây giờ tôi sẽ đưa ra một cách tiếp cận khác đối với trò chơi này. 00:12:05.502 --> 00:12:08.134 Bạn còn nhớ ma phương trong toán lớp bảy không? 00:12:08.134 --> 00:12:11.388 Tổng các dòng bằng 15. 00:12:11.388 --> 00:12:15.507 8+3+4, 1+5+9, 6+7+2 00:12:15.507 --> 00:12:16.885 Các cột cũng vậy. 00:12:16.885 --> 00:12:20.273 8+1+6=15 00:12:20.273 --> 00:12:22.942 3+5+7=15. 00:12:22.942 --> 00:12:24.734 và cả đường chéo cũng vậy. 00:12:24.734 --> 00:12:26.657 8 + 5 + 2 = 15. 00:12:26.657 --> 00:12:28.469 6 + 5 + 4 = 15. 00:12:28.469 --> 00:12:30.638 Tổng mỗi dòng, cột hay đường chéo đều là 15. 00:12:30.638 --> 00:12:34.108 Bây giờ chúng ta sẽ chơi lại trò chơi kia trên Ma phương, 00:12:34.108 --> 00:12:37.397 một cách tiếp cận khác của “Tổng 15” 00:12:37.397 --> 00:12:39.638 Paul chơi trước, cậu chọn 4. 00:12:40.099 --> 00:12:42.278 David chọn 5. 00:12:42.278 --> 00:12:45.787 Paul chọn 6, khá kì lạ vì có vẻ như cậu không thể thắng. 00:12:45.787 --> 00:12:50.202 David chọn 8, Paul chặn bằng việc chọn 2. 00:12:50.202 --> 00:12:55.121 Kết quả là Paul thắng bất kể David chọn 7 hay 9 ở lượt kế tiếp. 00:12:55.413 --> 00:12:57.744 Trò chơi này là gì? 00:12:58.021 --> 00:13:00.605 Đúng vậy, Tic-tac-toe (ND: một phiên bản của cờ Caro trên bàn cờ có kích thước bị giới hạn) 00:13:00.958 --> 00:13:04.061 “Tổng 15” chẳng qua chỉ là Tic-tac-toe 00:13:04.061 --> 00:13:07.316 trên một cách tiếp cận khác. 00:13:07.446 --> 00:13:09.308 Vậy nếu bạn biến đổi “Tổng 15”, 00:13:09.308 --> 00:13:12.237 di chuyển các quân bài để tạo thành một ma phương 00:13:12.237 --> 00:13:16.166 việc bạn làm là việc tạo là một mô hình núi Phú Sĩ, 00:13:16.166 --> 00:13:18.549 làm vấn đề trở nên rất đơn giản. 00:13:18.549 --> 00:13:20.499 Rất nhiều đột phá, 00:13:20.499 --> 00:13:21.831 như bảng tuần hoàn, 00:13:21.831 --> 00:13:23.254 Thuyết vạn vật hấp dẫn, 00:13:23.254 --> 00:13:25.716 đó là những cách tiếp cận vấn đề 00:13:25.716 --> 00:13:27.981 biến những thứ phức tạp và khó mường tượng 00:13:27.981 --> 00:13:31.005 trở nên cực kì đơn giản và có ý nghĩa, 00:13:31.005 --> 00:13:32.519 để dễ dàng tìm ra lời giải. 00:13:32.519 --> 00:13:34.836 00:13:34.836 --> 00:13:37.309 Định lí sau đây được gọi là Savant Existance Theoem. 00:13:37.309 --> 00:13:39.504 Với mỗi bài toán, 00:13:39.504 --> 00:13:41.725 tồn tại cách biểu diễn 00:13:41.725 --> 00:13:44.518 sao cho nó trông giống một đỉnh Phú Sĩ. 00:13:44.518 --> 00:13:45.750 Tại sao lại như vậy? 00:13:45.750 --> 00:13:47.262 Thực ra chứng minh khá là đơn giản. 00:13:47.262 --> 00:13:49.609 Tất cả những gì bạn phải làm là, 00:13:49.609 --> 00:13:53.023 nếu bạn đã biểu diễn tập các lời giải như thế này 00:13:53.023 --> 00:13:54.670 bạn chỉ cần đặt cái tốt nhất vào giữa. 00:13:54.670 --> 00:13:57.354 Những cái tồi nhất ra hai đầu 00:13:57.354 --> 00:13:58.899 và sắp xếp phần còn lại vào các khoảng trống còn lại 00:13:58.899 --> 00:14:01.282 để tạo ra một đỉnh Phú Sĩ. 00:14:01.282 --> 00:14:02.650 Rất rõ ràng phải không. 00:14:02.650 --> 00:14:04.386 Vấn đề là, để tạo ra được một núi Phú Sĩ, 00:14:04.386 --> 00:14:07.134 bạn cần phải biết được toàn bộ các lời giải trước đó. 00:14:07.134 --> 00:14:09.069 Phương án này rõ ràng là không khả thi 00:14:09.069 --> 00:14:11.881 nhưng nó chứng tỏ rằng luôn có cách sắp xếp như vậy. 00:14:11.881 --> 00:14:13.480 Tức là luôn có một khả năng 00:14:13.480 --> 00:14:15.224 một ai đó nhìn vào một vấn đề cụ thể và nói 00:14:15.224 --> 00:14:17.399 “Nếu tôi tiếp cận được bài toán theo cách này thì sao?” 00:14:17.399 --> 00:14:20.095 Và có thể cách giải đấy sẽ biến một mô hình dãy núi gồ ghề 00:14:20.095 --> 00:14:22.653 thành một mô hình có dạng đỉnh Phú Sĩ. 00:14:24.145 --> 00:14:26.002 Vấn đề nằm ở chỗ 00:14:26.002 --> 00:14:28.398 có quá nhiều cách tiếp cận tồi. 00:14:28.398 --> 00:14:30.622 Luôn có cách tiếp cận tạo ra đỉnh Phú Sĩ, 00:14:30.622 --> 00:14:34.065 nhưng cũng có rất nhiều cách tiếp cận tồi tệ. 00:14:34.065 --> 00:14:37.205 Giả sử rằng tôi có 10 phương án 00:14:37.205 --> 00:14:40.286 và tôi cần xác định có bao nhiêu cách đặt chúng trên mô hình dãy núi 00:14:40.286 --> 00:14:42.424 10 chỗ trống lúc đầu 00:14:42.424 --> 00:14:44.064 9 chỗ trống cho cái thứ 2, 00:14:44.064 --> 00:14:45.924 8 chỗ cho cái thứ 3, v.v 00:14:45.924 --> 00:14:51.348 Tức là có 10 giai thừa, xấp xỉ 3,6 triệu cách tiếp cận 00:14:51.348 --> 00:14:54.169 mà phần lớn là kém hiệu quả. 00:14:54.169 --> 00:14:58.381 Chúng không biểu diễn tập phương án theo một cách hữu ích. 00:14:58.381 --> 00:15:01.187 Chỉ một vài cách tiếp cận có thể tạo ra đỉnh Phú Sĩ. 00:15:01.187 --> 00:15:03.794 Chúng ta hãy nghĩ về giá trị của các cách tiếp cận, chúng ta sẽ nhận thấy: 00:15:03.794 --> 00:15:06.583 Luôn luôn có những cách tiếp cận hiệu quả 00:15:06.583 --> 00:15:09.726 mà những người thông minh có thể nghĩ ra, 00:15:09.726 --> 00:15:11.825 chúng thực sự là các cách tiếp cận tốt cho các vấn đề 00:15:11.825 --> 00:15:14.415 làm mô hình dãy núi trở nên bớt gồ ghề. 00:15:14.415 --> 00:15:16.978 Nếu chúng ta chỉ tiếp cận theo một cách ngẫu nhiên, 00:15:16.978 --> 00:15:18.915 mô hình dãy núi nhận được nói chung là rất gồ ghề, 00:15:18.915 --> 00:15:21.284 làm chúng ta bế tắc ở bất cứ chỗ nào. 00:15:21.284 --> 00:15:23.408 Theo cách đó, chúng ta sẽ không thể tìm ra lời giải. 00:15:23.408 --> 00:15:26.561 Chúng ta sẽ đương đầu với những mô hình gồ ghề 00:15:26.561 --> 00:15:29.210 với vô số vô số đỉnh. 00:15:29.210 --> 00:15:32.511 Bây giờ, hãy suy nghĩ xem, làm sao tìm ra được một lời giải tốt trên những mô hình gồ ghề này? 00:15:32.511 --> 00:15:35.935 Khi đã đứng tại một điểm, bạn tìm đến điểm tốt hơn bằng cách nào? 00:15:35.935 --> 00:15:38.616 Có phương án nào khác ngoài “leo đồi” không? 00:15:38.616 --> 00:15:42.207 Bởi vì “leo đồi” thực chất chỉ hữu ích trên không gian một chiều. 00:15:42.207 --> 00:15:43.966 Nếu có nhiều chiều hơn thì sao? 00:15:43.966 --> 00:15:45.036 Tôi sẽ phải làm như thế nào. 00:15:46.374 --> 00:15:47.012 00:15:53.601 --> 00:15:55.238 Vậy chúng ta học được gì từ bài giảng này? 00:15:55.238 --> 00:15:57.953 Thứ nhất, khi chúng ta tìm cách giải quyết một vấn đề, 00:15:57.953 --> 00:15:59.709 khi chúng ta mã hóa nó theo một cách nào đó, 00:15:59.709 --> 00:16:01.770 đây là một cách tiếp cận. 00:16:01.770 --> 00:16:06.755 Một cách tiếp cận sẽ tạo ra cực đại địa phương. 00:16:06.755 --> 00:16:09.748 Cách tiếp cận tốt sẽ có ít cực đại địa phương. 00:16:09.748 --> 00:16:13.258 Cách tồi hơn sẽ có nhiều cực đại địa phương hơn. 00:16:13.258 --> 00:16:15.962 Số lượng cách tiếp cận cho một vấn đề 00:16:15.962 --> 00:16:18.078 có thể lên tới hàng tỉ. 00:16:18.078 --> 00:16:19.390 Bởi vì có hàng tỉ cách tiếp cận, 00:16:19.390 --> 00:16:21.425 phần đông tỏ ra không thực sự hiệu quả. 00:16:21.425 --> 00:16:25.256 Một vài cách tiếp cận biến bài toán thành một mô hình núi Phú Sĩ. 00:16:25.256 --> 00:16:27.118 Đôi khi, chỉ có thiên tài 00:16:27.118 --> 00:16:28.582 như Newton hay Mendeleev 00:16:28.582 --> 00:16:30.784 mới có thể tìm ra cách tiếp cận 00:16:30.784 --> 00:16:32.958 biến một mô hình phức tạp, gồ ghề 00:16:32.958 --> 00:16:34.561 thành một đỉnh Phú Sĩ. 00:16:34.561 --> 00:16:36.914 Trong những trường hợp khác, chẳng hạn như bài toán về kích thước xẻng, 00:16:36.914 --> 00:16:42.352 hẳn nhiều người có thể tìm ra cách tiếp cận 00:16:42.352 --> 00:16:44.416 để bài toán trở thành một đỉnh Phú Sĩ. 00:16:44.416 --> 00:16:45.366 Điểm mấu chốt là: 00:16:45.366 --> 00:16:48.969 Khi chúng ta giải quyết một bài toán, đầu tiên hãy mô tả nó. 00:16:48.969 --> 00:16:51.262 Chúng ta sẽ có một số cách tiếp cận vấn đề. 00:16:51.262 --> 00:16:55.519 Cách mô tả sẽ quyết định độ khó của bài toán. 00:16:55.519 --> 00:16:58.384 Nếu có thể biểu diễn được bài toán thành đỉnh Phú Sĩ, bài toán sẽ là đơn giản. 00:16:58.384 --> 00:17:01.912 Nếu nó trở nên mấp mô, 00:17:01.912 --> 00:17:04.150 vấn đề có lẽ khá phức tạp. 00:17:04.150 --> 00:17:05.794 Trong bài giảng tiếp theo, 00:17:05.794 --> 00:17:09.791 chúng ta sẽ đề cập đến việc 00:17:09.791 --> 00:17:11.831 một khi chúng ta đã có mô hình dãy núi này, 00:17:11.831 --> 00:17:13.412 làm cách nào để tìm kiếm phương án tối ưu trên mô hình đó? 00:17:13.412 --> 00:17:14.509 Chúng ta đã từng đề cập đến “leo đồi” 00:17:14.509 --> 00:17:17.200 nhưng cũng có rất nhiều cách để bạn có thể leo. 00:17:17.200 --> 00:17:20.919 Và đó là vấn đề chúng ta sẽ đề cập trong bài kế tiếp: hàm đánh giá kinh nghiệm được sử dụng trên mô hình dãy núi. 00:17:20.919 --> 99:59:59.999 Cảm ơn các bạn đã theo dõi.