Chào các bạn, chào mừng đến với Cùng học tiếng Trung được trang italki.com hỗ trợ. Hôm nay chúng ta sẽ cùng học một bài thơ Trung Hoa kinh điển khác. "Đăng Quán Tước lâu". Đây là một bài thơ Đường sáng tác bởi nhà thơ Vương Chi Hoán vào đầu thế kỷ thứ 8 theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Đây là thể thơ phổ biến thời nhà Đường, mỗi dòng có cùng số chữ, thường là 5 chữ, bài thơ được viết theo từng cặp câu và độ dài theo luật 4, 8 hoặc tùy ý nếu lớn hơn 8. Cũng có vài bài thơ 6 câu nhưng ít phổ biến hơn. Sự sắp xếp các chữ với thanh điệu nhất định cũng được quy định theo một thể thức riêng mặc dù nhiều trong số này đã bị mất đi khi đọc bằng tiếng Trung hiện đại, bởi lẽ thanh điệu đã thay đổi kể từ thời nhà Đường. Phát âm vùng Quảng Đông thì gần hơn với nguyên bản nhưng cũng không giống hệt. Trước hết, chúng ta hãy đọc bài thơ : Đăng Quán Tước lâu. Bạch nhật ỷ sơn tận, Hoàng Hà nhập hải lưu. Dục cùng thiên lý mục, Cánh thượng nhất tầng lâu. Giờ hãy cùng xem câu thơ thứ nhất: Bai ri yi shan jin. Câu đầu tiên là "bai ri" - bạch nhật, mặt trời trắng, "yi" - ỷ, dựa vào, "shan" - sơn, núi, "jin" - tận, đến tận cùng. Vậy có thể hình dung là mặt trời trắng đi đến cuối cùng sự nghỉ ngơi trên núi. Mặt trời lặn dựa lưng nghỉ ngơi trên ngọn núi. Chữ "jin" (tận) được dùng rất nhiều trong tiếng Hoa cổ và trở nên quen thuộc. Trong ngữ cảnh này nó liên quan đến mặt trời, có nghĩa là mặt trời lặn. "Huang he ru hai liu". "Huang he" nghĩa là Hoàng Hà, một trong hai con sông lớn nhất ở Trung Hoa, cùng với sông Dương Tử. Hoàng Hà được mang tên này nhờ lớp trầm tích màu vàng tô màu con sông. "Ru" nghĩa là nhập, đi vào, "hai" là hải-biển, và "liu" nghĩa là lưu-lưu chuyển. Chúng ta có thể dịch câu này là Sông Hoàng Hà chảy vào biển lớn. Do vậy hai câu thơ đầu miêu tả những gì Thi nhân nình thấy. Hai câu thơ cuối liên kết với nhau chặt chẽ hơn: Để đạt được điều này, tôi sẽ đọc tiếp. "Yu qiong qian li mu". "Yu" nghĩa là dục-mong muốn, "qiong" là một chữ khác tương tự như "jin", trong ngữ cảnh này nó có nghĩa là đi tới điểm giới hạn, tới "cùng". "Qian li" nghĩa là thiên lý, 1000 lý - đơn vị đo lường của Trung Quốc, tương đương với khoảng một nửa cây số thời nay Dù độ dài đo lường thay đổi qua lịch sử và ở thời nhà Đường nó tương đương khoảng hơn 300 mét. "Mu" nghĩa là mục-con mắt. Vậy cả câu thơ nghĩa là đi đến tận cùng của tầm mắt xa ngàn dặm. Câu thơ này dịch sang tiếng Anh không hay cho lắm nhưng bạn có thể tưởng tượng như là Thi nhân phóng tầm mắt nhìn xa nhất có thể. Tiếp đó, "geng shang yi ceng lou". "Geng" nghĩa là thêm nữa, khá gần nghĩa với tiếng Trung hiện đại. "Shang" - thượng, nghĩa là đi lên. "Yi" là nhất - một, "ceng" nghĩa là tầng, "lou" nghĩa là ngôi chùa, quán, lầu. Như vậy, tôi đi lên thêm một tầng nữa của căn lầu và căn lầu đó là lầu Quán Tước, như đã viết trong tiêu đề bài thơ: Đăng Quán Tước lâu. Lầu Quán Tước là một ngôi chùa được xây dựng ở tỉnh Sơn Tây vào thời Nam Bắc triều bởi một vị tướng nhà Bắc Chu tên là Yu Wenhu. Nó là điếm canh cho quân lính và bởi ở đó có cò (quán tước) làm tổ cuối cùng nó được gọi là lầu Quán Tước. Ngôi chùa nhìn ra sông Hoàng Hà và cao ba tầng. Ngôi chùa nguyên gốc đã bị phá hủy bởi đám cháy trong một trận chiến thời nhà Nguyên và bởi vì sông Hoàng Hà đã thay đổi dòng chảy vào thời Minh, vị trí ban đầu của ngôi chùa trở nên khó xác định. Nhưng ở tỉnh Sơn Tây, người ta bây giờ đã xây dựng một lầu Quán Tước mới làm điểm tham quan du lịch. Ngôi chùa mở cửa vào năm 2002. Tôi hi vọng các bạn yêu thích bài thơ Trung Hoa cổ này. Bạn có muốn học thêm nữa không? Hãy cho chúng tôi biết trong phần bình luận bên dưới nhé. Tập này được mang đến cho bạn bởi italki.com. Hãy ghé thăm trang của họ để học tiếng Trung online với giá chỉ 10 đô la một giờ, tôi thực sự đánh giá cao dịch vụ của họ. Hãy xem đường link hoặc dán nó vào trình duyệt của bạn để tìm hiểu thêm và tận dụng cơ hội mua một tặng một nhé. Cảm ơn, hẹn gặp lại các bạn. Zaijian!