-
Thay mặt cho Chủ tịch
và Giám đốc điều hành của chúng tôi, Greg Case
-
và giám đốc Tiếp thị, Phil Clement,
-
Thật là vinh hạnh cho Aon khi được
tài trợ chương trình ngày hôm nay.
-
Và như nhiều quý vị cũng biết,
Aon giờ đây
-
là công ty có trụ sở ở Anh Quốc.
Nhưng quý vị cũng cần biết rằng
-
Quỹ Aon trong suốt 25 năm vừa qua
-
đã ưu tiên cho các hoạt động giáo dục và
-
tổ chức về văn hóa như
Lễ Hội Nhân Văn Chicago,
-
Hội Nhân Văn Hiến Chương,
làm phong phú thêm
-
cuộc sống của tất cả chúng ta ngồi đây
cũng như nhiều người dân Chicago.
-
Và mặc dù giờ chúng tôi có ở Anh,
Tôi muốn mọi người trong căn phòng này biết rằng
-
chúng tôi vẫn có ý định tiếp tục
sự cam kết này.
-
Và cam kết đó sẽ luôn nằm ở vị trí cao
trong danh sách ưu tiên của chúng tôi
-
để ủng hộ cộng đồng Chicago nhiều năm tới.
-
[vỗ tay]
-
Thay mặt các đồng nghiệp của tôi tại Aon,
Tôi muốn cảm ơn
-
các thành viên của Hội Nhân văn Hiến Chương
-
vì những ủng hộ to lớn của họ.
Và tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới
-
Đại học Luật Northwestern đã cho phép
chúng tôi sử dụng
-
hội trường ở đây ngày hôm nay.
-
Ở Aon, chúng tôi tin vào câu khẩu ngữ:
“Nếu có việc ta không thể định lượng,
-
vậy ta sẽ không làm việc đó."
-
Bởi vậy cho nên,
thật sự vinh dự cho chúng tôi
-
được chào mừng TS. Philip Kotler.
-
TS. Kotler đã định nghĩa ngành marketing là
-
“một ngành khoa học và nghệ thuật
khám phá, sáng tạo và chuyển hóa giá trị để
-
thỏa mãn nhu cầu của mục tiêu tiếp thị
nhằm tạo ra lợi nhuận.”
-
Ông được thế giới công nhân
như một trong những chuyên gia hàng đầu
-
về kinh doanh, tiếp thị
và về những hiểu biết sâu sắc
-
trong việc làm thế nào mà cách tiếp thị mẫu mực
lại có sự sáng tạo và sức mạnh
-
để ảnh hưởng tới tiêu dùng toàn cầu mỗi ngày.
-
Trên tinh thần ấy, tôi hy vọng quý vị sẽ cùng tôi chào đón
TS. Philip Kotler lên sân khấu
-
[vỗ tay]
-
Giờ, trước khi tôi chuyển mic cho TS. Kotler,
-
về khía cạnh marketing, có lẽ
nhiều người ngồi đây đã biết
-
rằng Aon đã làm được nhiều điều tuyệt vời
trên toàn cầu, nhưng một điều
-
mà chúng tôi đã làm được để
tạo ra sự nhận thức to lớn về thương hiệu
-
cho công ty của chúng tôi chính là sự tài trợ
cho đội bóng Manchester United,
-
Đội bóng đã thắng 2-1 trước Arsenal hôm nay.
-
[vỗ tay]
-
Chúng tôi đang ở--
Hiện giờ chúng tôi đang
-
dẫn đầu trong giải ngoại hạng Anh.
-
Vì vậy trên tinh thần ấy,
-
Tôi muốn tặng TS. Kotler
chiếc áo MU
-
dành riêng cho ông.
-
Cảm ơn.
-
David, cảm ơn rất nhiều.
-
Và tôi sẽ mặc nó,
trong tưởng tượng.
-
[Cười]
-
Có thể nói rằng, tôi thực sự đánh giá cao
màn giới thiệu của ông.
-
Trong tất cả những màn giới thiệu tôi từng nhân được,
của ông là gần nhất.
-
[Cười]
-
Quốc gia, quốc gia...
-
Ồ, có lẽ bạn biết
Steven Colbert,
-
nên tôi không thể làm giống như thế nữa.
-
Sẽ có hai nhóm: thích marketing,
-
và một nhóm không thích marketing,
-
và tôi sẽ nói cho các bạn biết vì sao
họ lại không thích marketing,
-
và sự phân tích đằng sau ấy.
Tôi cũng sẽ nói về nhóm
-
thích marketing nữa.
Cho nên trước khi ta kết thúc,
-
các bạn sẽ hoàn toàn bối rối,
hoặc ít nhất là khăng khăng cố chấp.
-
Cho nên, điều tôi muốn làm là
nói cho cá bạn rằng đó chính là
-
thứ người ta gọi là
lời thú nhận của một chuyên viên tiếp thị.
-
Đó, nhân tiện thì, được mượn từ David Ogilvy,
-
người viết cuốn sách tuyệt vời tựa đề
"Lời Thú Tội Của Người Làm Quảng Cáoị."
-
Tối sẽ tiếp tục nói đến việc tại sao
marketing lại là một chủ đề
-
dành cho tất cả mọi người?
-
Và ta có thể nói đến vài nguyên do như
-
Thứ nhất: tôi cho rằng marketing là
một bộ môn xã hội học
-
bởi vì marketing ảnh hưởng tới lối sống của chúng ta
-
thậm chí tạo ra, không chỉ ảnh hưởng,
mà là tạo ra lối sống.
-
Và từ quan điểm lợi ích chung, ta nên
-
quan tâm tới điều ấy.
-
Và đó thật sự…
-
Tôi muốn nói rằng marketing rất Mỹ
-
Và khởi nguyên của ngành Marketing
thực sự rất Mỹ.
-
Điều đó không có nghĩa rằng những dấu hiệu
của marketing không xuất hiện sớm hơn.
-
Và thực ra tôi muốn đưa cho các bạn
một số thông tin ngắn gọn về lịch sử của nó
-
để bạn có thể thực sự
hiểu tôi đang nói gì
-
Nếu bạn tra trong bất kỳ quyển từ điển nào,
như Webster chẳng hạn
-
vào năm 1900, tìm từ marketing
-
bạn sẽ không tìm thấy thấy từ ấy.
-
Đúng vậy, bạn sẽ tìm được từ “thị trường”,
nhưng sẽ không phải từ “tiếp thị” .
-
Nếu bạn tìm trong cuốn từ điển năm 1910,
bạn sẽ tim được từ marketing trong đó
-
Bởi vì marketing có tuổi đời khoảng 100 tuổi.
-
Và nó còn hơn cả chỉ là về bán hàng.
Tôi sẽ cho bạn xem…
-
Hãy bắt đầu...
Hãy bắt đầu từ Kinh thánh.
-
Hãy bắt đầu bằng Kinh thánh.
-
Ai là nhà tiếp thị trong bức tranh này?
-
Đứng dưới góc nhìn từ Kinh thánh
Ai là nhà tiếp thị đầu tiên của thế giới này?
-
Tôi nghe thấy Eva...
-
Con rắn.
-
Tôi ghét phải thừa nhận điều này,
nhưng con rắn nghe thật lén lún
-
vân vân.
-
Nhưng sự thật chính con rắn
là người bán khi thuyết phục
-
Eva để nàng khiến Adam ăn trái cấm.
Vì vậy, bán sản phẩm thực ra đã có từ rất lâu
-
Ít nhất thì việc bán hàng đã có từ rất lâu.
Giờ, hãy đi xa hơn,
-
Đây là cha đẻ của ngành marketing.
-
Chà, thật là một sự sỉ nhục với ông.
-
Ý tôi là, đó là Aristotle đấy.
-
Gần đây, tôi có tham dự một bữa tiệc nhỏ,
và chúng tôi thử suy đoán xem
-
nhân vật nào chúng tôi muốn gặp nhất
nếu chúng tôi chỉ có một giờ đồng hồ với họ
-
Và chúng tôi dần đi đến lựa chọn như Plato,
Socrates, hay Aristotle.
-
Sự lựa chọn khó khăn.
-
Hóa ra cuối cùng tôi chọn Aristotle.
-
Aristotle là Google của thời đại ấy.
Ông ấy biết nhiều về tất cả mọi thứ
-
hơn tất cả những người trên thế giới bấy giờ.
Ông viết về khoa học, chính trị,
-
kinh tế, hùng biện, nghệ thuật,..
Mọi thứ.
-
Giờ, tại sao tôi lại nói rằng ông ấy có
sức ảnh hưởng tới marketing?
-
Sau đây tôi sẽ đọc định nghĩa của thuật hùng biện.
Ông không phải người sáng lập ra hùng biện.
-
Nhân tiện thì sáng lập ra thuật hùng biện là
những nhà Ngụy biện năm 600 trước Công Nguyên.
-
Họ là một nhóm người muốn dùng sự bán hàng,
lời nói và lòng tin
-
cho mục đích nham hiển của bản thân.
Nhưng Aristotle đặt--
-
tính kỷ luật lên trước thuật hùng biện-.
-
Hùng biện là nghệ thuật nhằm cải thiện
khả năng của người nói hoặc người viết
-
đang cố gắng thông báo, thuyết phục,
hoặc thúc đẩy một nhóm khán giả cụ thể
-
trong những hoàn cảnh cụ thể.
Đó là khả năng quan sát
-
trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Đó là một phương tiện thuyết phục sẵn có.
-
Cho nên, theo một nghĩa nào đó,
ông là cha đẻ của nghề bán hàng.
-
Ý tưởng khiến ai đó làm điều gì đó
mà họ có thể đã không làm theo cách khác.
-
Rồi, hãy tiếp tục về
-
những dấu hiệu sớm nhất của nền marketing
-
Tôi biết nhiều bạn không thể đọc được,
cho nên tôi sẽ đọc nó
-
Những cửa hàng bách hóa đầu tiên
được mở ra khi nào, và ở đâu?
-
Thường thì nếu bạn đang ở Pháp,
họ sẽ trả lời rằng dĩ nhiên là Pháp rồi,
-
Chúng tôi phát minh ra cửa hàng tạp hóa
Tầm đâu đó năm 1845.
-
Cùng thời điểm chúng tôi phát minh ra
chặn giấy và vài thứ nữa.
-
Nhưng thực ra cửa hàng tạp hóa đầu tiên
trên thế giới lại ở Nhật Bản
-
Công ty Mitsui, vẫn đi vào hoạt động
đến thời điểm này
-
Vì vậy, đó là nơi một trong những hình thức
bán lẻ của ta bắt đầu.
-
Tiếp theo là tờ báo đầu tiên đăng tin quảng cáo.
-
Báo chí đã xuất hiện từ sớm, nhưng
tờ quảng cáo đầu tiên xuất hiện tại Anh vào năm 1652
-
Và nó quảng cáo cà phê.
Sau đó, công ty quảng cáo đầu tiên
-
được thành lập muộn hơn một chút.
Thực ra, muộn hơn nhiều chút.
-
N.W. Ayer, hiện tại vẫn là
một công ty quảng cáo hùng mạnh.
-
Lần đầu tiên một nhãn hiệu được quảng bá
là xà phòng
-
Tên của nhãn hiệu là Xà phòng Ngọc Trai.
-
Và bao bì đầu tiên xuất hiện sau đó một chút,
-
và cuối cùng ta có riêng một
phòng nghiên cứu tiếp thị được thành lập.
-
Vậy là, từ “thị trường” đã xuất hiện rất nhiều năm.
-
“thị trường” đã xuất hiện từ thời Trung Cổ
Thật ra, mỗi lần--
-
Thậm chí nó là Agora,
ở Hy Lạp cổ đại--
-
có nghĩa là nơi hội họp
Dưới thời Hy Lạp cổ,
-
Người dân sẽ đến một nơi
vào một ngày nhất định để bán đồ.
-
Vào thời Trung cổ,
có những ngày họp chợ.
-
Từ “tiếp thị” không xuất hiện.
Đó chỉ là thị trường.
-
Và “trao đổi” thì luôn luôn hiện hữu,
Bởi “trao đổi”, trong suốt chiều dài lịch sử,
-
đã có chỗ đứng giữa dân chúng,
tôn giáo, và các quốc gia.
-
Cho nên tất cả đều đã xuất hiện.
Trong thập niên đầu của những năm 1900
-
Cuốn sách về tiếp thị đầu tiên xuất hiện.
Và điều thú vị là,
-
Ai đã viết những quyển sách đó?
Có phải là những nhà xã hội học hay không?
-
Nguyên tắc của những người này là gì?
-
Có ai có thể đoán không?
-
Họ không phải là những nhà vật lý học
hay nhà hóa học.
-
Họ là những nhà Kinh tế học.
-
Vậy tại sao những nhà Kinh tế học lại
bắt đầu một chuyên ngành gọi là “tiếp thị”
-
Và câu trả lời là:
-
Họ là những nhà kinh tế học vỡ mộng.
-
Họ không thể tìm thấy bất kỳ đề cập nào
về quảng cáo trong các diễn ngôn kinh tế
-
Nói cách khác thì, Adam Smith,
-
Thomas Malthus, David Ricardo,
thậm chí Alfred Marshall, vân vân
-
họ hiếm khi nói về những yếu tố khác
cấu thành nhu cầu.
-
Đối với họ yếu tố duy nhất tạo nên nhu cầu
chính là giá cả
-
Bạn hẳn biết đường cong nổi tiếng:
giá tăng, nhu cầu giảm,
-
Giá giảm, nhu cầu tăng.
Giá là thứ duy nhất ảnh hướng tới nhu cầu.
-
Cho nên những nhà kinh tế học ấy
-
hay những nhà kinh tế học của học viện nói rằng,
“Này, phải thêm yếu tố quảng cáo vào nữa chứ!”
-
Ta phải tính đến các cửa hàng bán lẻ,
toàn bộ doanh số bán, nhân công, đại lý
-
Và vì các nhà kinh tế học cổ điển bỏ qua việc
-
sự cấu thành của thị trường ảnh hưởng tới
cách vận hành nền kinh tế,
-
dẫn đến sự bỏ qua của marketing.
-
Cho nên marketing thực tế là
một nhánh của kinh tế học.
-
Giờ, ai là người giúp phát triển lĩnh vực này?
-
Bạn có lẽ sẽ không nhận ra bất kỳ ai
trong số những người này
-
Đó có lẽ là người duy nhất bạn có thể nhận ra.
-
Tôi không biết bạn có nhìn rõ
những khuôn mặt này không.
-
Có ai nhận ra người nào không?
-
Đúng vậy.
-
Dale Carnegie.
Chính là Dale Carnegie,
-
Và cuốn sách của ông ấy chính là “Đắc Nhân Tâm”
-
Bằng cách này, tôi muốn tìm ra
-
ai là ví dụ điển hình cho
phương pháp bán
-
“Đắc Nhân Tâm”.
-
Hãy để tôi cung cấp cho bạn bức tranh toàn cảnh.
-
Ernest Dichter - một số bạn đã biết ông.
-
Ông ấy là nhà tâm lý học về tạo động lực,
ông ấy có thể giải thích tại sao mọi người
-
không thích ăn mận khô, tại sao xì gà lại
khiến một số người cảm thấy khó chịu,
-
và đủ thứ trên đời.
-
Sách của ông có tựa: “Nghiên cứu về ham muốn”.
Ông là bạn cùng khóa với Sigmund Freud,
-
và rõ ràng ông đã mang tư duy đó
vào lĩnh vực tiếp thị.
-
Nhưng ông có một đối thủ tên là
Alfred Pollitz,
-
một người không phải là nhà tâm lý học,
mà chúng tôi gọi ông là một “nose counter”
-
Cách diễn đạt chúng tôi thường dùng
cho người vô cùng am hiểu về tâm lý học
-
nhưng nếu bạn không phải là một nhà tâm lý học
vậy thì bạn là một “nose counter”.
-
Cụ thể, là một nhà giám sát học.
Bạn giám sát xem bao nhiêu phần trăm số dân
-
ở một độ tuổi nhất định và
tại sao họ lại mua một sản phẩm nhất định.
-
Julius Rosenwald là người đằng sau thành công của công ty SEARS.
-
Đó là giai đoạn quan trọng trong
-
sự phát triển của chuỗi bán lẻ của chúng ta.
-
Lester Wunderman xứng đáng được ghi nhận
là tấm gương điển hình trong việc sử dụng
-
những bức thư được gửi trực tiếp và
những quyển danh mục sản phẩm.
-
Bạn không cần phải trực tiếp đến cửa hàng,
có người có thể đặt mua hàng cho bạn
-
qua thư hoặc qua điện thoại.
-
David Ogilvy là một ví dụ điển hình
cho một nhà tiếp thị mẫu mực
-
Rồi đến Stanley Marcus,
của công ty Neiman Marcus,
-
là người có thể bước vào bất kỳ
cửa hàng bán lẻ nào và
-
đưa cho họ 100 gợi ý về cách cải thiện bố cục,
kích thước của lối đi,
-
và tạo ra sự khác biệt trong doanh số bán hàng.
-
Edward Bernays là cha đẻ của lĩnh vực
quan hệ công chúng ở Mỹ.
-
Tên của ông ấy có lẽ ít người biết đến
Nhưng ông ấy thực sự là một người quan trọng.
-
Từ “tuyên truyền” thường được gắn liền với sự nghiệp của ông
-
Bởi vì mọi người thường nghĩ rằng
đó là cách để khiến bạn cảm thấy
-
theo một cách nhất định
mặc cho những chuẩn mực liên quan
-
Và rồi có Dale Carnegie,
-
Trong vài tình huống, làm sao để marketing
bắt đầu những điều ấy?
-
Marketing khiến mọi thứ bắt đầu
bằng bộ phận bán hàng .
-
Mọi công ty đều có một bộ phận bán hàng
Và mỗi chuyên viên bán hàng đều thực sự muốn
-
ở trong văn phòng của khách hàng
bởi đó là cách duy nhất cho điều gì đó
-
thực sự xảy ra.
Cho nên họ không muốn làm thật nhiều bài tập về nhà,
-
Ví dụ, có ba điều mà họ không muốn làm
-
Họ không muốn cứng ngắc làm những
nghiên cứu về khách hàng,
-
Bởi vì điều đó làm mất thời gian của họ
bên cạnh khách hàng.
-
Thứ hai, họ sẽ thích để người khác tìm
khách hàng tiềm năng
-
Giờ, chúng ta phải phân biệt các khách hàng tiềm năng
Một khách hàng tiềm năng hấp dẫn sẽ kiểu:
-
"Ồ, anh ấy đã sẵn sàng để mua rồi.
Anh ấy còn gọi cho chúng tôi để mua.”
-
Khách hàng tiềm năng,
khách hàng không tiềm năng, vân vân
-
Ai đó nên làm điều đó cho các nhà bán hàng
để họ không mất thời gian vào những cuộc gọi.
-
Và điều thứ ba là ai đó nên chuẩn bị sẵn
tài liệu và tờ rơi.
-
Nhà bán hàng không được trang bị kỹ năng đó.
-
Người bán hàng không được trang bị
kỹ năng giao tiếp thông qua quảng cáo và tờ rơi
-
Cho nên phòng sale nên thêm ba nhân viên
-
Hoặc thuê họ theo từng thời điểm.
-
Sau đó, nó bùng nổ khi mà ngày nay,
các công ty đa quốc gia đang
-
đang hoạt động tiếp thị--
Nói cách khác, marketing--
-
Ba người đó tách khỏi phòng sale và
trở nên đủ lớn để thành một bộ phận tách biệt.
-
Do đó, một số thính giả ngồi đây có lẽ là
-
giám đốc marketing.
-
Tên cũ là Phó chủ tịch mảng marketing
Nhưng tôi thích cái tên
-
Giám đốc marketing bởi vị họ giờ đây
là một phần của giám đốc điều hành.
-
Giám đốc thông tin, Giám đốc tài chính
-
Giám đốc sáng tạo,...
Và chức danh đã được cải tiến,
-
Vài người trong số bạn có thể là các nhà quản lý thương hiệu,
hoặc đã từng có kinh nghiệm về lĩnh vực ấy
-
nhà quản lý danh mục,
nhà quản lý phân khúc thị trường,
-
quản lý các kênh phân phối
như bán lẻ hay bán buôn
-
nhà quản lý giá cả, nhà quản lý truyền thông,
nhà quản lý cơ sở dữ liệu,
-
nhà tiếp thị trực tiếp, nhân viên làm tại nhà,
vân vân
-
Cho nên, marketing về cơ bản đã được hình thành.
-
Giờ, phong cách của phòng tiếp thị
phụ thuộc rất nhiều vào việc
-
CEO nghĩ gì về tiếp thị.
-
CEO 1P là kiểu người
mà khi tiếp quản công ty sẽ kiểu:
-
“Tôi không thích marketing,
nhưng tôi biết là tôi cần nó.
-
Và tất cả những gì tôi cần chỉ là vài
sự giao tiếp mà thôi.
-
Tôi chỉ muốn ai đó thông cáo
và truyền bá công ty này."
-
Ông ta đã bỏ lỡ rất nhiều thứ
mà những nhà CEO khác,
-
Những người CEO được mệnh danh là 4P nắm rõ
-
Giờ, một nhà CEO có 4P sẽ nói:
“Cái tôi cần là một kế hoạch tiếp thị”
-
Và kế hoạch phải nhắc tới được sản phẩm.
Đó là chữ P đầu tiên (Product)
-
Sản phẩm của chúng ta như thế nào?
Có điều gì tuyệt vời về nó? Nó có những tính năng gì?
-
Giá cả (Price): nó nên có giá như thế nào?
Địa điểm (Place): Nó nên được bán ở đâu?
-
Online, hay không online?
tại các cửa hàng bán lẻ?
-
Và cuối cùng mới là quảng bá (Promotion).
-
Đó là góc nhìn có định hướng
về sự tiềm năng của tiếp thị
-
Nhưng có quan điểm về marketing còn tốt hơn thế.
Đó là những CEO sẽ nói:
-
“Không, tôi không muốn khởi đầu với 4 chữ P, tôi muốn
bắt đầu với sự thật rằng thị trường là một thứ rất phức tạp.”
-
Có rất nhiều phân khúc,
-
Mỗi phân khúc xứng đáng có một chiến lược riêng.
Thực tế, chúng ta học được rằng
-
nếu ta chỉ có một đề xuất giá trị cho cả một thị trường,
-
nó sẽ chẳng gây ảnh hưởng gì tới
rất nhiều phần của thị trường
-
Vậy vị CEO đó nói:
“vậy phân khúc nào tôi nên theo đuổi?”
-
Và “Thứ hạng nào tôi nên đạt được
với mỗi phân khúc ấy?”
-
“Công ty tôi nên nói gì về bản thân mình?
Làm sao chúng tôi có thể thỏa mãn nhu cầu của khách hàng?”
-
Thậm chí còn có kiểu CEO cao cấp hơn thế,
A.G. Lafley là ví dụ tiêu biểu.
-
Ông là cựu điều hành Procter & Gamble.
-
Nếu bạn hỏi A.G. Lafley thế nào là marketing,
nhận định của ông thế nào về marketing,
-
ông ấy sẽ trả lời,
-
"Ý bạn là gì? Marketing là mọi thứ."
-
Marketing là mọi thứ.
Ý ông ấy ở đây có nghĩa là
-
Mọi thứ đều bắt đầu từ khách hàng.
Không có khách hàng, không có kinh doanh.
-
Và tôi nghĩ rằng ông ấy đã làm rõ được
quan điểm của ông ấy.
-
Tiếp theo,
có nhiều việc mà một giám đốc marketing phải làm
-
và tôi sẽ không đi vào chi tiết nữa,
nhưng nó sẽ nhiều đầu việc
-
và có một thực tế đáng buồn là đôi khi
giám đốc marketing chỉ tồn tại trung bình 2 năm.
-
Nói cách khác, thì họ sẽ cảm thấy họ
-
không mang đến sự mới mẻ cho việc kinh doanh,
-
hoặc giá trị của họ vượt quá giá trị họ tạo ra.
-
Có rất nhiều thứ cần đi vào tìm hiểu
về việc tại sao các giám đốc marketing trung bình
-
chỉ giữ công việc được 2 năm.
Nhân tiện, vài người trong số họ có
-
một công việc tốt hơn sau 2 năm.
Họ có chức vụ nào đó tốt hơn là giám đốc marketing.
-
Một vài họ bị ăn cắp bản quyền,
-
Và bởi vì họ quá giỏi,
họ sang công ty khác và trở thành CEO
-
Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào,
marketing thương mại
-
thứ mà tôi đang bàn luận ngay lúc này,
chỉ có thể mãi dừng ở tính thương mại
-
cho đến khi tôi được tiếp xúc với
Giáo sư Sid Levy ở ĐH Northwestern.
-
Chúng tôi lên ý tưởng mở rộng marketing
-
bởi vì bộ công cụ mà chúng ta sử dụng để
giải quyết vấn đề của người tiêu dùng có thể
-
được sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác.
Cho nên chúng ta có một thứ gọi là marketing địa điểm.
-
Tôi sẽ nhận được một cuộc gọi từ một thành phố,
giả sử,
-
thành phố nói: “tôi không có nhiều khách du lịch,
tôi không có bất kỳ điểm thu hút nào.
-
Tôi muốn vài nhà máy được đặt ở đây.
-
Tôi muốn vài dân công nghệ chuyển đến đây.
-
Tôi muốn một thung lũng Silicon của mình."
Và đó chính là marketing địa điểm.
-
Tiếp thị một địa điểm,
làm sao để tân trang nó và khiến nó trở nên hấp dẫn
-
đủ để cạnh tranh với các địa điểm đối thủ?
-
Thứ hai, Marketing con người.
-
Có một công ty tên là William Morris,
và một ca sĩ trẻ muốn đến William Morris
-
và nói: “Nhìn đây, tôi muốn được nổi tiếng.
Tôi muốn xuất hiện trong chương trình Jay Leno,
-
Tôi muốn được chú ý tới.
-
Tôi muốn có sự phủ sóng cao
-
Tôi đã viết một cuốn sách có tựa “Phủ sóng cao”
về cách làm thế nào bạn đạt được điều ấy.
-
William Morris sẽ nhìn màn thể hiện của cô ấy
và có lẽ sẽ nói,
-
“Em biết đấy, không có ý gì đâu,
-
nhưng tôi có thể biến em
trở thành một sản phẩm tốt hơn.”
-
Đó là một loại ngôn ngữ, bạn biết đấy
thay đổi kiểu tóc, thay đổi cách đi lại, ăn mặc
-
Thực ra, chúng tôi sẽ sử dụng bạn để
khơi lại nguyên mẫu của Joan Baez
-
Bạn biết đấy, Joan Baez, ca sĩ đồng quê.
-
Chúng ta sẽ cần một Joan Baez mới.
Và vì lẽ đó, chúng tôi sẽ tuyển bạn và biến bạn
-
trở thành người mà đại chúng từng nhớ thương,
và vân vân.
-
Rồi, marketing trên mạng xã hội lại là
một nhánh khác.
-
Hiện nay trên thế giới có khoảng 2000 nhà marketing
đang giúp mọi người
-
ăn lành mạnh hơn, tập thể dục nhiều hơn
nói không với chất kích thích, ngừng hút thuốc lá,
-
nói không với nhiều hành vi khác.
-
Hành vi tích cực và hành vi tiêu cực.
-
Nhân tiện, tôi nhớ rằng Thụy Điển là
một trong những quốc gia đầu tiên
-
muốn trở thành một quốc gia
không thuốc lá, không uống rượu, vân vân
-
Và điều đó bắt đầu từ cấp tiểu học, về mặt lý thuyết,
bạn có thể nuôi dạy những đứa trẻ tránh xa những điều ấy
-
Đó là một chính sách công tốt.
-
Đó là marketing xã hội.
Giờ hãy đến với marketing chính trị.
-
Tôi nghĩ nó đang bị bão hòa,
nhưng đó là một câu chuyện khác.
-
Gây quỹ là một phần của lĩnh vực marketing này.
-
Ý tô là, gây quỹ là một hình thức kỳ quặc,
bởi bạn đang không trao đổi.
-
Tất cả mọi thứ khác dường như là
sự trao đổi giá trị một cách nào đó
-
Còn gây quỹ dường như là một hình thức
trao đổi một chiều.
-
Đây là số tiền dành cho bảo tàng.
Nhưng tất cả những nhà tài trợ và
-
những người ủng hộ bảo tàng đều hiểu rằng
sẽ có giá trị nào đó quay trở lại với người tài trợ
-
và những người ủng hộ bảo tàng.
-
Và để tất cả mọi người hiểu được điều đó
rất quan trọng với marketing.
-
Nếu bạn đọc danh sách trên, bạn sẽ thấy tất cả
chúng ta đều đang làm tiếp thị.
-
Bạn đã bao giờ cạnh tranh cho một công việc
khi bạn biết có nhiều ứng viên cạnh tranh với bạn chưa?
-
bạn ăn mặc chỉn chu, thậm chí chuẩn bị sẵn
những gì bạn định nói?
-
Bạn đã bao giờ cạnh tranh cho một căn hộ
đáng mong muốn hiện tại đang khan hiếm?
-
Hoặc muốn gây ấn tượng với người khác giới,
nếu bạn muốn tán tỉnh họ?
-
Vì vậy, theo một nghĩa nào đó,
-
chúng ta là loài biết tạo ấn tượng
và tiếp thị bản thân.
-
Có điều gì ta không thích về marketing?
-
Đó là một danh sách dài.
Đó nên là một danh sách dài.
-
Xâm phạm, đứt đoạn, cường điệu
vân vân và vân vân
-
Và tôi thực sự đã lập một danh sách
hơi tách biệt với danh sách đó.
-
Dưới đây là một số lời chỉ trích:
cách nhà tiếp thị khiến người tiêu dùng mong muốn
-
và tiêu nhiều hơn mức bản thân họ có thể chi trả.
-
và chúng ta biết từ thảm họa tài chính
mà mọi người đã mua nhà mà không có một đồng nào.
-
Các nhà tiếp thị có kỹ năng tạo ra
-
sự khác biệt lớn ở nơi
nó đáng ra không nên tồn tại.
-
Đáng ra gà là gà, xi măng là xi măng
-
nhưng họ dành rất nhiều thời gian để nói
với bạn rằng thực ra thì xi măng tốt hơn,
-
muối của họ tốt hơn, vân vân
Các nhà tiếp thị của tạo ra và bán ra
-
thật nhiều sản phẩm càng tốt mà không để tâm
đến chi phí tài nguyên và chi phí môi trường của sản phẩm.
-
Hành tinh bị ảnh hưởng
-
bởi số lượng sản phẩm được tạo ra
và sự đầu tư vào sản phẩm ấy.
-
Các nhà tiếp thị không quan tâm đến tính
an toàn của sản phẩm.
-
Chúng ta đều biết điều đó bởi vì Ralph Nader
làm nên sự nghiệp của ông ấy--
-
dựa vào những chiếc xe hơi không an toàn.
-
Chúng ta bị nhiễm độc chì, và vân vân.
-
Và đây là một chỉ trích mạnh mẽ đây.
Các nhà tiếp thị, không phải tất cả,
-
ở một số công ty nhất định,
-
các nhà tiếp thị quảng bá thứ mà họ muốn không quan tâm
liệu nó có thực sự tốt cho công chúng hay không.
-
Được thôi, tôi sẽ bán cho anh bao thuốc.
Bất kỳ điều gì kiếm được tiền.
-
Do đó, marketing thúc đẩy lối tư duy vật chất
-
rằng ta đang dần sống trong
một thế giới đầy thực dụng
-
Một thế giới của các sản phẩm và dịch vụ
luôn thay đổi để bắt kịp thời đại
-
Và một số điều nữa,
-
Nhà tiếp thị hiếm khi nói về tiêu dùng lành mạnh.
-
Vâng, một vài công ty bia nói,
“hãy thưởng thức bia của chúng tôi,
-
nhưng đừng uống quá nhiều.”
Thực ra không ai lắng nghe điều đó,
-
Và bạn vẫn có những bữa nhậu say
nhưng họ đang cố gắng làm những gì có thể
-
Bây giờ, tôi chỉ có thể nói rằng có một
-
khía cạnh cũng không kém phần quan trọng khác.
-
Bởi vì nó không phải là một bức tranh đơn giản.
-
Mặc khác đó là marketing chắc chắn đã
nâng cao mức sống của Hoa Kỳ
-
Mọi người không tự nhiên mua những
sản phẩm mới.
-
Nói cách khác, bạn biết đấy,
mọi người sẽ giữ tủ lạnh của họ,
-
thứ không phải tủ lạnh vào thời điểm đó.
-
Chúng là những hộp đá và họ sẽ tiếp tục
lấy đá và cho vào cái hộp, vân vân
-
và ngay cả với chiếc máy rửa bát,
kể cả khi chúng quá chậm đi nữa.
-
Nói cách khác,
-
mua một thiết bị mới sẽ rất đắt đỏ
-
nhưng các nhà tiếp thị kiên trì nói rằng cuộc sống
của bạn sẽ tốt hơn với những thiết bị mới.
-
Và đó chính xác là công việc của họ.
-
Tôi thậm chí sẽ đi xa hơn khi nói rằng
marketing có mối quan hệ mất thiết với
-
ý tưởng về tầng lớp trung lưu.
Chúng ta đang nói về việc bảo tồn
-
và xây dựng tầng lớp trung lưu,
và lối sống gắn liền với nọ
-
Và tiếp thị là yếu tố thiết yếu quyết định
những gì mà tầng lớp trung lưu
-
là ai, muốn trở thành kiểu người như thế nào.
-
Tiếp thị với hình thức là tiếp thị xã hội
đã giúp cải thiện rất nhiều thứ.
-
Bạn biết đấy, một trong những nguyên nhân đầu tiên
-
khiến marketing bị quay lưng chính là
môi trường, chất thải
-
và tác hại của một số sản phẩm tới sức khỏe,
và vân vân.
-
Bảo vệ môi trường là một trong những điều đầu tiên
-
mà các nhà tiếp thị xã hội quan tâm.
-
Bây giờ họ coi béo phì là một vấn đề,
xả rác bừa bãi là một vấn đề,
-
Và các vấn đề khác nữa.
-
Marketing rất quan trọng với văn hóa thế giới.
-
Bảo tàng, trình diễn nghệ thuật.
Một trong những vấn đề lớn.
-
mà các cơ sở văn hóa đang phải đối mặt.
Đặc biệt trong nghệ thuật biểu diễn
-
là sự già hóa của đối tượng khán giả.
Bạn làm cách nào có thể khiến những người
-
ở độ tuổi 40 đi xem Opera hoặc đi xem ba lê đây?
-
Đó gọi là xám hóa đối tượng thính giả.
-
Có lẽ vấn đề đó đã tồn tại từ lâu,
nhưng các nhà marketing đang
-
làm việc để phân khúc, xác định mục tiêu,
định vị đối tượng nhằm
-
đảm bảo tất cả các ghế trong rạp phim hay
các vé bảo tàng sẽ được lấp đầy
-
Với tư cách các tổ chức tiếp thị,
họ phải thu hút khách tham quan
-
có các nhà tài trợ, nhận trợ cấp chính phủ
-
vì vậy tiếp thị gần như là một chức năng nội tại
của các tổ chức, đang diễn ra ngay thời điểm hiện tại
-
Hãy để tôi…
-
Đây không phải lúc bạn có thể bầu
xem bạn có thích marketing hay không,
-
Nhưng hãy để tôi cho bạn xem cảm giác -
-
cảm giác tiêu cực đến với những nhà tiếp thị.
-
Những kẻ tấn công. Họ tấn công marketing.
Bạn có nhận ra ai trong số người này không?
-
Bạn thấy Ralph Nader? Tôi không...
Ô, ông ta kia. Đúng vậy
-
Còn ai nữa?
-
Vâng, đó là Ralph Nader.
"Không an toàn ở mọi tốc độ."
-
Nhân tiện, Rachel Carson,
xứng đáng được ghi nhận nhiều hơn thế
-
cho cuốn sách “Suối nguồn” của bà
-
Cuốn sách nói về ô nhiễm hóa chất,
thuốc trừ sâu xâm nhập vào nguồn nước
-
Vance Packard, người đã phổ biến ý tưởng
-
rằng chúng tôi là những nhà lôi kéo giấu mặt.
Bạn không biết điều này, nhưng khi vào rạp chiếu phim,
-
vài quảng cáo hiện ra, thôi thúc bạn đứng dậy
ra ngoài và mua bỏng ngô trước khi phim chiếu.
-
Quảng cáo tiềm thức,
-
Điều mà chưa xảy ra bao giờ
ngoài việc đúng là có những nhà lôi kéo ẩn giấu
-
Rồi đến John Kenneth Galbraith,
người chỉ ra rằng trong khi chúng ta
-
chi rất nhiều tiền để tạo ra đủ loại
chất khử mùi
-
thì ở những nơi công cộng--
-
Ở những nơi công cộng, bạn có
-
những con phố đầy rác,
Ùn tắc giao thông-
-
Chúng ta có những khu vực tư nhân tốt
nhưng chúng ta lại không thể tận hưởng chúng
-
bởi vì ta không có những khu vực công
có cơ sở hạ tầng đủ tốt
-
Rồi ta có Naomi Klein,
người là nguyên mẫu cho việc bài trừ thương hiệu.
-
Thương hiệu, thương hiệu, chúng thật kinh khủng
-
Bạn đang phải trả nhiều tiền hơn
số tiền bạn cần phải trả.
-
Cuốn sách có tên là “No Logo”
Logo là tên gọi khác của thương hiệu.
-
Và Michael Sandel là-- đã cho ra mắt
một cuốn sách thực sự thú vị và đáng đọc.
-
Ông điều hành một khóa học về công lý,
-
và sẽ hỏi hội trường tại Havard,
cỡ từng này người,
-
“Điều đúng đắn phải làm trong tình huống này là gì?”
Cuốn sách mới của ông có tựa:
-
“Thứ tiền không mua được: Ranh Giới đạo đức của marketing.”
-
Trong đó ông chỉ ra rằng
nếu bạn có đang đi tù ở California,
-
nếu bạn không vừa lòng về nhà giam hiện tại,
bạn có thể trả tiền để có một nhà giam tốt hơn. Bạn biết đấy,
-
nhà giam mà có một chiếc máy tính chẳng hạn
Nếu bạn muốn có một chiếc máy tính.
-
Nhưng ông cũng đề cập rằng–ông nghĩ rằng
nền văn hóa hiện nay đang chia rẽ con người,
-
phân tầng các giai cấp một cách rõ rệt hơn.
Chúng ta từng đến những vũ hội nơi
-
ta có thể ngồi cạnh ai đó, mặc giàu nghèo,
-
Ta có thể xếp cùng một hàng chờ mua xúc xích.
-
Ngày nay, những người giàu có ở tận mãi
trong những chiếc hộp là những căn hộ áp mái
-
ông gọi đó là chiếc hộp áp mái của Hợp Chủng Quốc.
Chiếc hộp áp mái.
-
Họ ăn thịt bò phi lê trong khi
chúng ta những người nông dân ở dưới này--
-
đứng xếp hàng để mua xúc xích.
Cuộc sống của ta đang không còn giao nhau
-
như chúng ta từng nữa.
Đó là một hiện thực hết sức thú vị.
-
Tôi xin được trích dẫn Will Rogers:
“Nếu nhà quảng cáo chi cùng một số tiền
-
cho việc cải thiện sản phẩm như cho marketing,
họ sẽ không cần phải quảng bá nó.
-
Và đó--
-
Nhân tiện, đó quả thực là một quan điểm sâu sắc,
bởi vì trong kỷ nguyên Internet,
-
thật dễ dàng để nói về sản phẩm
mà bạn thích với người
-
đồng thời nói cả về sản phẩm mà
bạn không thích
-
Và theo nghĩa nào đó, nếu đi xa hơn
bạn sẽ thấy rằng không hề có cái gọi là công ty xấu nữa.
-
Sẽ là không thể để mà
có công ty nào đó xấu xa được nữa
-
bởi vì sự truyền miệng
sẽ đè bẹp sự thật về chất lượng.
-
Cho nên về cơ bản ý kiến của ông đã
chạm được đến cốt lõi--
-
Làm tốt việc của bạn, rồi thế giới
sẽ quảng bá nó cho bạn.
-
Giờ, tôi muốn nói thêm về một nhóm người khác,
người được xem như nhìn xa trông rộng,
-
và tôi sẽ gọi họ là những nhà tiếp thị
xuất sắc nhất.
-
nhưng họ không nhất thiết là
giám đốc marketing
-
Họ là những CEO.
Những đóng góp của họ là những đóng góp
-
bạn muốn được nhìn thấy
từ giám đốc marketing của bạn
-
Ta nhìn thấy những ai ở đây?
-
Quý vị có biết những người này không?
-
Vâng, bạn hẳn sẽ biết được một vài người trong số họ.
Nhưng bạn hẳn sẽ không biết người đầu tiên.
-
Ingvar Kamprad.
Đến tên của ông cũng rất khó nhớ.
-
Nhưng ông là người Thụy Điển đã phát minh ra IKEA,
-
là người đã nói: “tôi phải nghĩ ra cách
hạ giá thành của nội thất xuống,
-
và tôi sẽ làm điều đó bằng cách rút bớt không khí
và cho khách hàng tự lắp ráp nội thất.
-
và giờ người dân có thể chi trả cho
những món đồ nội thất đẹp đẽ với giá thành phù hợp
-
Richard Branson là một hiện tượng.
Cậu ta tự quảng bá chính mình.
-
Cậu ta là một trong
những người tự quảng bá tốt nhất
-
Tôi không biết rằng bạn có từng bắt gặp
hình ảnh cậu ta ở Quảng trường thời đại
-
vài năm trước để quảng cáo về
dòng điện thoại mới của cậu ta hay không. Chiếc Virgin ấy.
-
Cậu ấy quảng cáo rằng cậu sẽ cùng với điện thoại
nhảy từ tòa nhà 30 tầng mà không--
-
có bất kỳ bộ đồ bảo hộ hay đại loại vậy.
Cho nên rất nhiều người đã có mặt
-
Tôi không biết tại sao nhiều người
lại có mặt ở đó đến như vậy.
-
Và chắc rồi, cậu ta đúng là nhảy xuống
-
nhưng là được buộc cùng với dây thừng,
mang theo phiên bản phóng đại của chiếc điện thoại mới
-
và rồi tất cả mọi người, không chỉ ở Quảng trường Thời Đại,
tất cả các phóng viên đưa tin về nó.
-
Mọi ngóc ngách ở New York đều nghe về nó,
rằng có một chiếc điện thoại Virgin đời mới
-
Cho nên cậu ấy quả thực rất giỏi tiếp thị.
Nhưng hiện giờ, cậu ấy lại nói với tôi
-
một điều không thể tin được
Lúc bấy giờ tôi đang ở Dubai,
-
và cậu đang có một bài phát biểu ở đấy,
chúng tôi chỉ đang tán gẫu, rồi cậu ấy nói
-
"Bác từ đâu đến?" Tôi trả lời là từ Chicago
rồi cậu ta bảo: “bác biết đấy, sau này
-
sẽ có thời điểm mà bác có thể đi từ Dubai tới Chicago
chỉ trong vòng nửa giờ đồng hồ.”
-
“Thời điểm n--?
Có phải cậu đang phát minh một cái cỗ máy thời gian không?”
-
Cậu ta nói, “Không, chỉ là tên lửa mà thôi.”
Tên lửa từ Dubai, bay lên không trung
-
rồi hạ cánh xuống Chicago.
-
Cho nên về cơ bản thì cậu ta nghiên cứu
tàu vũ trụ với vài người khác.
-
Và bạn sẽ muốn xem cậu ta,
Tất nhiên rồi, trên kênh Walt Disney ấy.
-
Thật là một người có tầm nhìn xa trông rộng.
-
Herb Kelleher. nhờ có anh ta,
Chúng ta có Southwest Airlines,
-
là hãng hàng không khởi đầu cả
một phân khúc máy bay giá rẻ
-
Và rồi ta có Anita Roddick,
người điều hành The Body Shop, cô ấy nói
-
"Tôi không bán hy vọng, tôi bán sữa dưỡng thể tuyệt vời.
Trong khi những người khác bán là hy vọng."
-
Đây là một câu nói ưa thích đến từ Revlon,
"Tại nhà máy chúng tôi làm những thỏi son,
-
nhưng tại cửa hàng chúng tôi bán ."
Nhưng cô ấy đang vật lộn với câu nói đó.
-
Và rồi chúng ta có Bill Gates,
Steve Jobs, và Jeff Bezos.
-
và Jeff-- xem nào, hãy đảm bảo ông ấy
có mặt trong danh sách kia.
-
Jeff là một con người phi thường.
-
Nếu ai đó có suy nghĩ của
một người tiêu dùng trong đầu,
-
muốn tạo điều kiện cho người tiêu dùng
thực sự đặt hàng hoặc tái đặt hàng hoặc hoàn trả hàng
-
hoặc bất kỳ điều gì tương tự vậy, mua nhiều sách hơn,
mua nhiều đồ dùng điện tử hơn, mua nhiều quần áo hơn,...
-
anh ấy đã làm được những điều tuyệt vời.
Anh ấy là một ví dụ điển hình theo cách đó đấy.
-
Chúng ta sắp hết thời gian nên
tôi muốn một vài câu hỏi từ phía các bạn.
-
nhưng hãy để tôi đề cập đến một vài điều nữa.
-
Đây là biểu đồ tôi đã sử dụng trong cuốn sách
"Marketing 3.0,"
-
Về cơ bản để nói rằng mọi công ty
nên xác định sứ mệnh và tầm nhìn của mình
-
cho tương lai và cho các giá trị mà công ty
hướng tới. Điều công ty thực sự quan tâm.
-
Và nếu bạn là một nhà marketing 1.0,
bạn đang làm rất tốt công việc của mình
-
Ý tôi là, bạn đang cố gắng mang lại sự hài lòng,
tạo ra lợi nhuận và tạo ra những sản phẩm tốt.
-
Hãy làm tốt hơn thế,
Nếu bạn là nhà marketing 2.0, bạn sẽ muốn
-
giúp mọi người nhận ra nguyện vọng của họ,
bạn muốn truyền động lực tới sự khao khát
-
họ vốn dĩ đang sở hữu
họ sẽ tiếp tục quay lại và mua nhiều hơn.
-
Sản phẩm của bạn sẽ khác biệt so với những sản phẩm khác.
Không chỉ tốt hơn, mà còn khác biệt hơn.
-
Và đột nhiên, sản phẩm bạn chuyển từ lý tính,
sang cảm tính, cho tới tinh thần
-
Tinh thần là gì?
Đó là một chuỗi các công ty mà nói rằng
-
"chúng tôi có quan tâm. Chúng tôi có quan tâm
tới thực trạng của thế giới này và
-
chúng tôi muốn được tham gia và đồng hành,
trở thành một cỗ máy để cải thiện
-
cuộc sống của mọi người."
bạn có thể thấy qua-- bạn có thể thu hẹp
-
điều đó qua những hoạt động thiện nguyện mà họ đang làm.
Hoặc nó có thể được thể hiện qua cái cách
-
họ thiết chặt thể chế kinh doanh của họ.
Ta có thể kể tên một vài công ty
-
mà thực sự cho ta cảm giác họ đang giúp
thay đổi thế giới này trở nên tốt hơn.
-
Cho nên là--
-
Đây là một vài công ty ưa thích của tôi
-
Công Ty SC Johnson tại Racine, Wisconsin
-
Những sản phẩm của họ được chiếu trên đây.
Bạn có thể đã sở hữu một vài sản phẩm
-
sáp hoặc thuốc diệt côn trùng hoặc
một vài thứ khác của họ.
-
Họ vừa giành được giải thưởng
về sự chu đáo của họ.
-
Trùng hợp là, một cuốn sách mà bạn có thể
muốn đọc có tựa là:
-
"Những Công Ty Dấu Yêu"
Một cách gọi hào nhoáng dành cho
-
những công ty mà chúng ta yêu mến.
Những công ty dấu yêu.
-
Và tôi thích dòng chú thích,
"Làm thế nào các công ty tầm cỡ thế giới
-
kiếm lợi nhuận từ nhiệt huyết và lý tưởng."
Và nó dựa trên câu trả lời của công chúng
-
khi được hỏi ngẫu nhiên:
“Bạn có công ty rất thích không?”
-
Giờ, tôi sẽ hỏi bạn câu hỏi này
-
Kể tên một công ty mà bạn sẽ rất nhớ nếu
bỗng nhiên biến mất, bốc hơi
-
Apple, vậy đấy, luôn luôn là Apple.
-
Tôi tưởng bạn sẽ nói Harley Davidson,
Một công ty khác, Amazon.
-
Tôi sẽ nhớ Amazon.
-
Thực sự đấy. Tôi thậm chí sẽ trợ cấp
cho công ty ấy để họ tiếp tục tồn tại.
-
Công ty nào cơ?
-
Costco. Đương nhiên rồi.
Tôi cũng đồng tình với Costco.
-
Nike. Rồi, bạn thấy đấy,
câu chuyện là,
-
đây là những công ty
được nhắc đi nhắc lại.
-
Tôi không nghĩ có bất kỳ sự ngạc nhiên nào ở đây.
Tôi cũng đặt câu hỏi tương tự với các quốc gia khác,
-
Bởi vì sẽ có những tổ hợp các công ty
khác nhau có thể xuất hiện
-
Nhưng điều quan trọng là,
các công ty được yêu mến này có
-
có nhiều lợi nhuận hơn rất nhiều so với
những công ty mà không được chúng ta yêu mến.
-
Một trong số chúng là–
Họ có lãi gấp 9 hoặc 10 lần,
-
nhưng ta sẽ không hiểu tại sao lại vậy,
nếu ta không nói qua điều sau,
-
Hãy nhìn vào dòng cuối cùng,
đây là một chuỗi những yếu tố làm nên thành công ấy.
-
và yếu tố cuối cùng là số tiền họ chi trả
cho marketing
-
là ít hơn, thay vì nhiều hơn.
-
Tôi cá rằng bạn nghĩ những công ty
mà được chúng ta yêu quý
-
là những công ty
được quảng cáo rất nhiều.
-
Họ trở nên quen thuộc.
Như Coca-Cola
-
Mọi lúc, toàn thời gian.
Không. Họ đầu tư vào marketing ít hơn,
-
Nhưng ai là người đang làm công việc quản cáo?
Chính là khách hàng. Chính là các bạn.
-
Khách hàng chính là nơi
bạn nên đầu tư tiền bạc vào.
-
Tạo mối liên hệ tình cảm với khách hàng,
hãy tạo ra những người hâm mộ.
-
Tôi sẽ kết thúc bài phát biểu bằng hai slide này.
Slide này sẽ hơi buồn, một chút thôi.
-
"Sự kết thúc của kỷ nguyên việc làm"
Là một cuốn sách của Jeremy Rifkin.
-
Nó có tuổi đời khoảng 9-10 năm.
Tác giả đề cập tới bởi dân số già đi,
-
nhà máy và máy tính tự động hóa,
người máy, máy in 3D,..
-
Liệu quốc gia có tạo ra đủ vị trí việc làm
-
cho mọi người trên thế giới hay không?
và vân vân
-
Và nó dấy lên câu hỏi
về vai trò của marketing.
-
Thường thì marketing là về việc
cố gắng bán cho bạn cái gì đó,
-
Vai trò cơ bản của marketing chính là
tạo ra việc làm.
-
Marketing tạo ra việc làm. Thực tế,
nó làm bạn muốn thứ gì đó mà ai đó tạo ra
-
Cho nên đây là câu hỏi cơ bản:
-
Tiếp thị có thực sự
tạo ra việc làm mới
-
hay nó chỉ tạo ra sự thay đổi cổ phiếu?
Giống như tôi chuyển từ mua của thương hiệu X
-
Sang thương hiệu Y, đó không phải tạo ra
Nhãn hiệu X mất việc còn nhãn hiệu Y có việc,
-
Đúng là ta nếu ta nói về sản phẩm mới,
-
thì marketing sẽ giúp đẩy nhanh sự công nhận,
nhận thức về sản phẩm đó,
-
Và tăng cường động lực để mua sản phẩm đó.
Nói cách khác, ta mua Ipad và
-
những thứ phụ kiện đính kèm với nó khác,
một phần bởi vì ta muốn được sở hữu chúng,
-
chúng là những vật phẩm giá trị,
và marketing thúc đẩy tốc độ tiêu thụ
-
của những sản phẩm mới ấy.
-
Cuốn sách còn lại, tôi sẽ kết thúc với nó,
cũng là một nốt trầm khác,
-
"Cái Chết của Nhu Cầu"
-
Và mối quan hệ giữa
marketing và nhu cầu ở đây là gì?
-
Tác giả ở đây sử dụng thuật ngữ “bão hòa”.
-
sự bão hòa của nền kinh tế toàn cầu.
-
Tôi vẫn đang trăn trở về điều ấy,
sự tăng trưởng là vấn nạn hiện thời.
-
Tăng trưởng là vận nạn,
bởi tăng trưởng nghĩa là nhiều việc làm, vân vân
-
Và thực tế chứng minh có tận
8 cách để phát triển sự nghiệp kinh doanh,
-
Cho nên tựa đề của cuốn sách là:
"Tiếp thị để phát triển: 8 cách để thành công
-
và bạn đã biết cả 8 cách ấy,
-
bạn biết rằng ta nên tới những nơi
mà có sự tăng trưởng
-
Ta nên kinh doanh ở thị trường Trung Quốc,
kể cả khi thị trường tăng trưởng chậm.
-
Hoặc Brazil, ta có thể phát triển bằng cách
mua lại các công ty khác.
-
Ta đều biết ta có thể phát triển bằng cách sáng tạo.
Tạo ra thứ mới.
-
Ta có thể phát triển bằng cách cướp
việc kinh doanh từ tay người khác,
-
vân vân và vân vân
-
Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là, chúng ta,
với tư cách là một công ty, nên phát triển theo cách nào?
-
Và một đồng nghiệp của tôi tại
-
trường Quản Trị Kelogg - Tim,
tình cờ đã viết một cuốn sách có tựa đề
-
"Bảo vệ Doanh Nghiệp của bạn"
Và thật tuyệt khi cuốn sách của anh ấy
-
xuất bản cùng lúc với cuốn sách của tôi.
Bởi việc đầu tiên với tư cách một doanh nghiệp
-
chính là bảo vệ doanh nghiệp ấy,
giữ chân khách hàng, rồi mới nghĩ xem
-
nên phát triển như thế nào.
Cùng là đồng nghiệp trong một khoa,
-
cùng vật lộn với vấn đề làm sao để lờ đi
những vấn đề được đề cập trong cuốn sách của chúng tôi
-
và bảo rằng chúng đều sai rồi, và ta
có một tương lai tuyệt vời phía trước như thế nào.
-
Tôi sẽ dừng bài nói của mình ở đây.
-
và sẵn sàng trả lời bất kỳ những câu hỏi nào
-
mà các bạn có.
-
Cảm ơn.
-
Vâng, chúng ta có một ít thời gian để
đặt câu hỏi cho GS. Kotler.
-
Có ai ở phía bên này khán phòng muốn
-
đưa ra câu hỏi nào không?
-
Vâng, tôi thấy rồi.
ở đằng kia,
-
Giờ một chiếc mic sẽ xuất hiện hết sức
thần kỳ phía dưới đấy ngay bây giờ
-
Susan đây sẽ mang mic tới cho bà.
-
Và nếu ai khác -
vâng, mời bạn ở đằng kia nữa
-
Mời bà giới thiệu về bản thân mình?
-
Tên tôi là Iris Witkowski
và tôi đã tham dự lễ hội Nhân Văn này
-
từ lúc nó bắt đầu thành lập.
Và tôi rất trân trọng bài phát biểu của ông ngày hôm nay.
-
Cảm ơn bà.
-
Tôi sẽ nói về điều thực sự
-
khiến tôi lo lắng, về vấn đề bão hòa
-
là sự thay thế của những sản phẩm
được sử dụng trên sóng truyền hình.
-
Nó thường sẽ thế này, ví dụ trong một bộ phim
và bạn sẽ kêu lên: “ôi, tôi từng thấy nhãn hiệu này rồi!”
-
Và nó sẽ trông như thật tình cờ.
Kết thúc thật rồi,
-
khi ngay cả người dẫn chương trình cũng
khoác áo khoác L.L. Bean.
-
Đó là một lĩnh vực gọi là Định nơi sản phẩm.
-
Và chúng tôi lần đầu tiên nhận ra điều đó
khi loạt phim James Bond được chiếu
-
Khi mà cứ mỗi lần xuất hiện, anh ấy sẽ lái
một chiếc xe khác nhau, Audi hay gì đó khác.
-
bởi vì nó dựa vào việc nhãn hiệu xe hơi nào
sẵn sàng trả tiền cao nhất cho bộ phim tiếp theo
-
để chiếc xe của họ có thể xuất hiện trong đó.
-
Liệu nhân vật đang trò chuyện kia đang cầm
lon Coca hay lon Pepsi hay lon nào đó tương tự?
-
Hầu hết chúng ta không chúng ý tới,
bởi chúng không thao túng ta quá nhiều
-
nhưng chúng tôi phát hiện ra cách để làm
cho một số sản phẩm nhất định xuất hiện đúng cách.
-
Đó gọi là Định nơi sản phẩm.
-
Tôi là Cody Hagle.
Tôi là một người theo chủ nghĩa nhân văn.
-
Một lần nữa, cảm ơn ngài.
Vào bản tin thời sự mỗi tối,
-
quảng cáo dược phẩm chiếm tới 75-80 phần trăm.
-
Ôi, cái nào cũng tệ như cái nào.
-
Và tôi tin rằng luật pháp đã có sự thay đổi
-
về yêu cầu pháp lý của dược phẩm
vài năm trước đây.
-
Ông nghĩ sao về vấn đề này?
Bởi rõ ràng quảng cáo thúc đẩy nhu cầu,
-
thúc đẩy giá cả, vân vân và vân vân.
-
Đúng vậy, những dược phẩm ấy
được gọi là thuốc không cần kê đơn.
-
Nhưng có thể chúng cũng cần được kê đơn.
Nên về cơ bản, bạn có thể nghiên cứu
-
trường hợp này theo khía cạnh rằng khách hàng
nên biết điều gì là tốt cho họ
-
Nếu không, người duy nhất có thể khẳng định
chính là bác sĩ.
-
Các bác sĩ đương nhiên không thích việc ấy.
-
Các bác sĩ trong nhiều trường hợp sẽ
cảm thấy bị xúc phạm khi bệnh nhân
-
muốn thuốc nào đó được kê cho họ.
-
Nhưng, bạn biết đấy, điều này cũng xảy ra
với luật sư mà hiện nay đang được quảng bá
-
Ngay cả bác sĩ cũng đang tự quảng cáo bản thân,
dù họ thích hay không thích điều ấy
-
Chuyên gia phải kể đến Prabha Sinha,
người đang điều hành một công ty tên là ZS
-
anh ấy luôn làm việc với cả
bên bác sĩ và bên dược
-
anh ấy có thể trả lời cho câu hỏi này.
-
Có điều gì về quảng cáo
khiến bạn bận lòng hay không?
-
Xin chào, tên tôi là Bob Michaelson.
-
Cảm ơn ông, G.S Kotler.
Thật là một vinh hạnh được gặp ông ngoài đời.
-
Ông đã truyền cảm hứng cho rất nhiều người,
trong đó có tôi trong rất nhiều năm.
-
Câu hỏi của tôi là--
-
Chờ chút, bao nhiêu trong số các bạn
đã đọc những cuốn sách tôi viết hãy giơ tay.
-
Cảm ơn các bạn.
Tôi nợ các bạn lời cảm ơn sâu sắc.
-
Làm ơn tiếp tục.
-
Câu hỏi của tôi liên quan đến
mạng xã hội
-
ông bắt đầu bài thuyết trình nói rất nhiều về
các hoạt động tiếp thị được định nghĩa
-
vào đầu những năm của thế kỷ 20.
Chúng ta có 100 năm hiểu biết về nó.
-
Khi ông nhìn vào mạng xã hội hiện thời,
-
liệu đây sẽ chỉ là một hiện tượng tạm thời,
hay là sự phát triển tịnh tiến của marketing
-
trong thế kỷ tới đây? Đó là câu hỏi thứ nhất.
Câu hỏi thứ 2 là: ông có thấy khả năng
-
ứng dụng tính chất tái đầu tư vào mạng xã hội?
-
Vâng, đó là những câu hỏi xuất sắc.
-
Đấy không phải là một xu hướng nhất thời.
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên kỹ thuật số,
-
chúng ta đã qua cái thời kỳ sử dụng analog
và không có đường quay lại.
-
Điều đó có nghĩa rằng tôi thấy điều xảy ra tiếp sau,
mỗi công ty tôi trò chuyện nói rằng:
-
“chúng tôi cũng sẽ trở nên số hóa một cách từ từ.
Còn truyền thống của mình vẫn là thứ chúng tôi dựa vào.”
-
truyền thống có nghĩa là báo giấy -
nhân tiện, đang biến mất
-
Đài, tivi, biển quảng cáo, các cuốn tạp chí
-
Cho nên, để tốt nhất, họ sẽ nói là
“hãy dành 10% ngân sách tiếp theo của
-
chúng tôi sang kỹ thuật số, có nghĩa là
Facebook, Twitter, và YouTube, vân vân
-
và hãy xem chuyện gì xảy ra.
-
Hãy thuê đứa trẻ 12 tuổi về làm việc này.
Đưa cho những đứa trẻ ấy ngân sách,
-
và hy vọng mấy đứa sẽ nói rằng
"Nhìn xem cháu làm gì trên facebook này,
-
Nhìn xem mình có bao nhiêu lượt nhắc tới kìa!"
-
Giờ, chuyển sang câu hỏi thứ hai,
-
Làm thế nào ta có thể đo lường tác động
của facebook hay ứng dụng tương tự nào đó?
-
Sự tác động ấy đang diễn ra ngay lúc này,
nhưng hãy nhớ, ta không bao giờ có thể
-
đo lường được sức ảnh hưởng của
quảng cáo một cách đúng đắn được.
-
Đầu tiên, khái niệm cơ bản của
quảng cáo truyền thống
-
bạn biết đấy, một nửa công chúng sẽ không
bao giờ nhìn thấy--
-
Wanamaker đã nói gì ấy nhỉ?
“tôi biết một nửa số tiền tôi dành cho quảng cáo là phí phạm,
-
tôi chỉ không biết nửa phí là nửa nào thôi.”
-
Về cơ bản, ta đánh giá điều đó trên nguyên tắc
xem có bao nhiêu người đã tiếp xúc,
-
chi phí để một nghìn người
tiếp xúc với dòng quảng cáo
-
khi chúng tôi lên kế hoạch
cho ngân sách quảng cáo
-
Khi mà thật ra rất nhiều khách hàng đang ở
phòng tắm hay nhà bếp khi quảng cáo xuất hiện
-
Vì vậy–
hơn là những người xem qua tivi
-
hay qua màn hình máy tính.
-
Và tôi nghĩ ngành quảng cáo đang mắc
sai lầm khi--
-
tạo ra quá nhiều quảng cáo.
Ý tôi là, tỷ lệ thuận với sự tăng lên của
-
số lượng quảng cáo thoáng qua trên tivi,
là sự nghèo nàn của nội dung được quảng cáo
-
Nó đều chỉ kéo dài 30 giây.
-
Bây giờ, về vấn đề đo lường
Nếu bạn đóc cuốn Kỷ Nguyên Quảng Cáo
-
bạn sẽ thấy rằng rất nhiều tuyên bố
chỉ ra rằng đang có sự đo lường diễn ra.
-
Một điều mà tôi có thể khẳng định đó là:
-
Đừng dành 50% ngân sách dành cho
quảng cáo và số hóa quảng cáo.
-
Điều mà một công ty đã từng làm,
và có một kết quả tồi tệ.
-
Cho đến khi bạn biết khả năng của
mỗi trang mạng xã hội
-
Điều bạn sẽ muốn làm là trước hết
chỉ dành 10% ngân sách
-
Sau đó nếu có bằng chứng khả quan,
bạn sẽ chi thêm 5-10% nữa
-
vào trang mạng xã hội cụ thể ấy.
-
Vâng, và chúng ta
có thời gian cho một câu hỏi nữa
-
Tôi biết nhiều thính giả ngồi đây
sẽ sang một sự kiện khác.
-
Chúng ta có một người đầu này.
-
Mark Ruen là tên tôi.
cả sự nghiệp của mình
-
Tôi làm việc trong ngành marketing trực tiếp.
Nên câu hỏi tới đây của tôi sẽ là về
-
sự định lượng trong ngành marketing
-
bởi vì tôi luôn dựa vào thước đo của chính mình.
Giờ, câu hỏi tôi đưa ra là:
-
Những quyết định tiếp thị của tôi luôn dựa vào
quy tắc 4P hoặc 5P, tùy thuộc vào
-
việc sản phẩm sẽ được bày bán ở đâu.
-
là P của Placement - vị trí.
Ý tôi là, Internet đã làm phẳng thế giới này.
-
Và các kênh phân phối sản phẩm
của chúng tôi cũng thay đổi theo đó.
-
Nhưng làm thế nào chúng tôi có thể thấy các chữ P khác
thay đổi ra sao trong Kỷ nguyên Kỹ thuật số?
-
Đầu tiên tôi phải nói rằng, tôi mừng vì hiện tại
bạn đang làm trong ngành marketing trực tiếp.
-
Những nhà marketing trực tiếp
chịu trách nhiệm về kết quả nhiều hơn.
-
Họ có thể thực sự thử nghiệm bằng cách
cố gắng đưa ra những thông điệp khác nhau,
-
và xem--
và thử xem, sau đó sẽ tiếp tục với một thông điệp
-
và hiểu cái giá của chiến dịch,
doanh số là bao nhiêu,
-
chỉ thuần P và L, như một bài rèn luyện.
-
Điều mà ta không thể làm với chỉ một bài
quảng cáo thông thường ta thấy trên tv
-
Giờ, bạn hỏi tôi những chữ P còn lại ở đâu?
-
Giống như, ta nên suy nghĩ như thế nào về
sản phẩm, giá cả, và địa điểm bây giờ?
-
Bạn thấy đó, sẽ luôn luôn
có những kênh phân phối mới
-
Tôi đã được hỏi câu hỏi này khi
tôi viết cuốn sách "Marketing 3.0,"
-
Và đó thực sự là tình huống
mà nhiều công ty nên làm rõ
-
Vài người có lẽ sẽ hỏi tôi,
-
"Khi nào thì ông sẽ nghĩ ra 4.0?"
-
Tôi thực sự không có câu trả lời
bởi khi ta đi từ lý tính, cảm tính
-
tới tinh thần,
-
tôi không rõ bạn có thể tiến bao xa.
-
Nhưng tôi nghĩ 4.0 sẽ miêu tả
kiểu công ty tương lai
-
sẽ xây dựng hệ thống sinh thái
và nền tảng của công ty
-
sẽ là một phần của hệ sinh thái
theo cách nào đó mà
-
ta có thể tự cung tự cấp, như một cá thể.
-
Như iTunes, iPhone, iTunes,
toàn bộ thiết lập của nó
-
Nghĩ tới Harley Davidson.
Nếu tôi mua một chiếc Harley Davidson,
-
Tôi là thành viên của--
Họ gọi nhóm sở hữu chiếc Harley là--
-
những chú lợn, những chú lợn!
-
Và không chỉ thế, tôi có thể trên
một con xe mô tô
-
và gặp những người, ,
-
tôi không biết nữa
-
có ria, vài người có râu, nhưng là giả
-
họ mặc áo da, có thể là những doanh nhân.
-
có thể là giám đốc tài chính
họ muốn trở thành một người đàn ông thực thụ
-
cho nên họ áp dụng cả một chuỗi sản phẩm
để phù hợp với hình tượng đó.
-
Nhiều công ty đang chú ý dần tới chuyện ấy hơn.
-
Ai là người đã tạo ra những đôi giày Tom?
-
Zappos? Họ tạo ra một hệ thống
vượt xa ra khỏi những đôi giày bạn mua
-
Nó sẽ vươn tới cả may mặc.
-
cho nên nhiều công ty, như sự phát triển
của một vài công ty nhất định--
-
Nhân tiện thì thực ra không có sự khác biệt
giữa việc kinh doanh này với việc kinh doanh khác,
-
Như công ty Boeing cung cấp
những chiếc 747 và những loại máy bay khác
-
Họ phải tạo ra cả một hệ sinh thái của riêng họ
mà bạn không tài nào sống thiếu họ.
-
Bạn biết đấy, một khi
bạn bắt đầu dính dáng tới--
-
Một khi bạn sử dụng sản phẩm của IBM
bạn sẽ không thể chuyển sang Honeywell hay gì đó.
-
Đó có lẽ là chính là tư duy 4.0.
-
Nói theo cách khác, tư duy lấy sản phẩm
làm trung tâm sẽ không còn
-
Thay vào đó là tư duy lấy hệ sinh thái
làm trung tâm. Toàn bộ hệ thống.
-
Tôi nghĩ rằng thời gian của ta đến đây là hết.
Cảm ơn các bạn rất nhiều.
-
Dịch bởi cộng đồng Amara.org