Ai sẽ nuôi sống chúng ta trên hành tinh
đang gặp khủng hoảng
Miguel A. Altieri
Đại học Schumacher 29/04/2015
Xin chào tất cả mọi người.
Tôi rất hân hạnh được có mặt ở đây, trong
trường ĐH Schumacher
và đất nước tươi đẹp này.
Clara và tôi cảm thấy được chào đón
và cảm thấy thuộc về một cộng đồng
mà mọi thành viên đều quan tâm đến những
vấn đề rất quan trọng cho tương lai của
hành tinh, từ những vấn đề thuộc về sự
thay đổi thiên nhiên một cách tích cực, và
cả nông nghiệp nữa, cho đến sự thay đổi
bản thân chúng ta vì đó mới là điều quan
trọng.
Chuyện chúng ta sẽ bàn đến trong ngày hôm
nay là
sự đối lập về ý thức hệ trong nông nghiệp
Có 2 hệ thống cùng tồn tại.
Một là nông nghiệp theo hình thức
công nghiệp, dựa vào các hoá chất đầu vào
và phương pháp trong Cách mạng Xanh. Hai
là nông nghiệp nhà quê mà người thực hiện
là các hộ nông dân. Hình thức này tồn tại
hàng thế kỷ, sử dụng những kiến thức mà
ngày nay chúng ta gọi là "những nguyên tắc
nông nghiệp sinh thái".
Hình thức nông nghiệp công nghiệp chiếm
phần lớn diện tích đất phục vụ nông nghiệp
Trên thế giới có 1.5 tỉ hec-ta đất nông
nghiệp mà 80% là độc canh. Hình thức này
phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên bên
ngoài, tức là tiêu tốn rất nhiều năng
lượng và đã trở thành áp lực chính dẫn đến
sự thay đổi của sinh quyển bởi vì ngày nay
nông nghiệp không chỉ ảnh hưởng trực tiếp
tới khu vực sản xuất mà còn cả các khu vực
xa. Ví dụ, những khu vực chết ngoài đại
dương mà chúng ta thấy là do các chất gây
ô nhiễm chảy từ sông ra biển. Những chất
này cùng với phân bón kích thích sự phát
triển mạnh mẽ của tảo và các sinh vật khác
Như vậy, đó có lẽ là tác động lớn nhất
làm thay đổi sinh quyển theo những hướng
khác nhau.
Độc canh có thể có một vài lợi
điểm ngắn hạn về kinh tế nhưng hình thức
này không tối ưu về mặt sinh thái vì với
một hệ thống đồng nhất như vậy, không có
nhiều loài sinh vật thì không có sự đa
dạng. Sự đồng nhất cao về mặt di truyền
làm cho hệ thống này cực kỳ dễ bị tổn
thương trước sâu bệnh và thay đổi khí hậu.
Thực tế là trong thập niên 70, Mỹ đã
đưa ra một cảnh báo về tình trạng dễ bị
ảnh hưởng của nông nghiệp Hoa Kỳ. Hồi đó
cả nước đã phải chịu một thảm hoạ do bệnh
trên ngô, làm giảm sản lượng từ 119 triệu
tấn năm 1969 xuống còn 106 triệu tấn năm
1970. 13 triệu tấn ngô bị mất tương đương
với 18.5 triệu Ca-lo.
Những hệ thống dễ
bị tổn thương, do không có các quy trình
sinh thái để tự bảo vệ chính nó, nên con
người phải dùng thuốc diệt sâu bọ để làm
cho những hệ thống đó có thể tồn tại.
Thêm vào đó, những hệ thống như thế
tiêu tốn 80% lượng nước toàn cầu
và tạo ra từ 25 - 30% lượng
khí nhà kính.
Trên biểu đồ này, các bạn có thể thấy
châu Âu sử dụng nhiều thuốc bảo vệ
thực vật nhất thế giới và tất nhiên là
lượng hoá chất này sẽ chảy ra môi trường,
gây nhiều hậu quả. Ước tính, ở Anh nếu
tính toàn bộ ảnh hưởng của nông nghiệp
hình thức công nghiệp, không chỉ ô
nhiễm do thuốc BVTV mà cả mất đa
dạng sinh học, mất đất do xói mòn, ảnh
hưởng tới sức khoẻ con người, thì con số
đó là 208 Bảng/ha. Những chi phí nyaf được
gọi là ảnh hưởng bên ngoài. Chúng được gọi
là ảnh hưởng bên ngoài vì toàn xã hội trả
chi phí đó, những nông dân sử dụng thuốc
BVTV và những công ty bán các sản
phẩm này không phải trả chi phí đó.
Một điều nữa mà chúng ta đang phải đối mặt
hiện nay là hệ thống nông nghiệp đang trở
nên ngày càng dễ bị ảnh hưởng bởi những
thay đổi của khí hậu. Có một đợt hạn
khủng khiếp nhất trong 50 năm xảy ra vào
năm 2012 ở vùng Trung Tây Hoa Kỳ, gây tổn
thất khoảng 13% sản lượng ngô và 8% sản
lượng đậu tương. Hầu hết ngô và đậu tương
ở đó là cây trồng chuyển gen (GMO) vì đây
là khu vực mà hầu hết cây trồng là sinh
vật chuyển gen. Ở California, năm nay 2014
là năm thứ ba hạn hán. Vì thế 400000 acre
đất phải bỏ hoang, tương đương với tổn
thất khoảng 1.5 tỉ Đô-la.
Một trong những điều thú vị ở đây là
hình thức sản xuất nông nghiệp hiện đại
này ảnh hưởng tới biến đổi khí hậu, và
biến đổi khí hậu liên quan đến nông nghiệp
quy mô công nghiệp. Như tôi đã nói, hình
thức sản xuất nông nghiệp này phát thải từ
25 đến 30% lượng khí nhà kính, lượng khí
nhà kính này làm biến đổi khí hậu và làm
thay đổi hệ thống nông nghiệp.
Mặc cho sự
cảnh báo này, và mặc cho bằng chứng là hệ
thống nông nghiệp đó không bền vững, chúng
ta vẫn quảng bá nó một cách rộng rãi.
Một trong những ví dụ rõ ràng nhất là công
nghệ mới - mà chúng ta gọi là GMO.
Khoảng 220 triệu ha đất trồng cây GMO,
trong đó 60% là đậu tương, cụ thể là
giống "Round-up ready", kháng thuốc trừ cỏ
Round-up. Loại thuốc trừ cỏ này do
Monsanto sản xuất.
Lý luận được sử dụng ở
đây, bởi những người ủng hộ công nghệ này,
không chỉ là các công ty mà cả các nhà
khoa học nhận tài trợ từ công ty này,
là ... Như ở trường tôi, đại học
California, một trường công, nhận 500
triệu Đô-la từ BP để tạo ra cái mà họ gọi
là "năng lượng sinh học chuyển gen".
Lý luận được sử dụng ở đây là chúng ta cần
phải nuôi sống thế giới. Nhưng té ra khi
chúng ta bắt đầu phân tích xem 1 ha đất
trồng cây chuyển gen có thực sự cung cấp
lương thực cho một trong số một tỉ người
đang chịu nạn đói - bởi vì đó mới là vấn
đề. Chúng ta thì không phải là vấn đề, mà
là những người nghèo thu nhập dưới 1 Đô-la
mỗi ngày và không có đủ ăn cơ. Thực ra là
không một mảnh đất nào trong số 200 ha
này là để cứu đói cả.
Vì sao? Có 4 cây trồng chiếm hầu hết diện
tích trồng cây chuyển gen:
đậu tương, ngô, bông và cải dầu.
Các bạn có thể nói là chúng ta ăn mỗi
ngô và đậu tương,
nhưng thực tế 50% số đó là để nuôi gia súc
50% còn lại là để nuôi ô tô.
Gia súc thì không ở Mỹ La-tin, nơi
trồng các loại cây chuyển gen này, mà
người nghèo thì lại ở châu Phi. Ngô và đậu
tương trồng ở Mỹ la-tinh sẽ được vận
chuyển đến châu Âu và Trung Quốc. Có nghĩa
là không có nổi 1 ha trong số đất đó được
dùng để sản xuất lương thực cho 1 trong số
1 tỉ người đang chịu nạn đói hiện nay.
Mặc cho sự thật đó, những hệ thống
sản xuất này vẫn tiếp tục được sử dụng
bằng cách buộc nông dân dùng Round-up
và độc canh. Nông dân không thể không dùng
Round-up, không thể đa dạng hoá hệ thống
cây trồng vì tất cả sẽ chết.
Rõ ràng, hệ thống nông nghiệp này phải
chịu những ảnh hưởng về sinh thái của
việc sử dụng lặp đi lặp lại một công nghệ.
Một trong những hậu quả đó là kháng thuốc.
Đây là một cánh đồng đậu tương ở Brazil
bị xâm chiếm hoàn toàn bởi cỏ kháng Round-
up. Có khoảng 12 loài cỏ đã kháng được
Round-up vì đó chính là sự phản ứng của
tự nhiên. Giống như trong ngành Côn trùng
học, khi chúng ta sử dụng thuốc diệt côn
trùng. Hiện có khoảng 500 loài côn trùng
có khảng năng kháng 1000 loại thuốc diệt
côn trùng. Cuộc chiến của các chất hoá học
tạo ra nhiều vấn đề hơn là giải quyết được
vấn đề.
Có một nghiên cứu mới công bố cho thấy
một số ảnh hưởng của glyphosate
đối với con người. Glyphosate
có thể gây ra
ung thư tuyến giáp thể non-
Hodgskins và một số bệnh ung thư khác.
Glyphosate hiện đang được sử dụng trên 750
sản phẩm thuốc trừ cỏ trên toàn thế giới.
Sẽ có một số người nói rằng kiểu gì cũng
có những điểm tốt ở GMO, ví dụ như "gạo
vàng". Hiện gạo vàng đã ra đời và có vẻ
như là nó sẽ được quảng bá mạnh mẽ ở châu
Á. Loại lúa chuyển gen này có thể sản sinh
ra Beta-caroten. Beta-caroten là tiền
Vitamin A, mà vitamin A thì rất quan trọng
đối với mắt. Châu Á lại có nhiều người bị
các bệnh về mắt.
Vậy thì, tại sao không
tạo ra lúa có Beta-caroten và sản xuất
rộng rãi ở châu Á?
Té ra, khi nghiên cứu hệ thống này...
Ở đây, nông dân trồng đủ
các thứ cây, không chỉ lúa mà nhiều giống
lúa, các cây trồng mùa khô, các cây lâu
năm, họ nuôi cá, vịt, lươn, nói chung là
rất nhiều thành phần mà khi con người
sống trong hệ thống đó, họ chẳng thiếu
chất gì. Có điều, những vùng đất này bị
chuyển sang sản xuất độc canh. Thế là khi
con người ăn mỗi gạo, và chỉ gạo, họ thiếu
đủ các chất, không chỉ vitamin A.
Thuốc trừ cỏ sử dụng trong Cách mạng Xanh
để diệt những loài thực vật mà chúng ta
gọi là "cỏ dại" trong nông nghiệp hiện
đại, còn nông dân thì gọi là ... ví dụ như
ở Mexico, nông dân gọi là những cây có ích
mà không phải là cây trồng. Những cây này
có thể ăn được, có thể chữa bệnh và nhiều
công dụng khác.
Trên bảng này, có một loại cây lấy lá,
mà chúng ta cố diệt bằng thuốc trừ cỏ,
chứa tới 444 micro-gram Beta-
caroten trong mỗi gram khối lượng tươi.
Trong khi đó, gạo vàng có khoảng 1.6,
hiện là 6 micro-gram Beta-caroten.
Con số đã được nâng lên...
Nghĩa là chúng ta phải ăn 1 cân gạo vàng
để có được lượng Beta-caroten trong một
chiếc lá của một loài cây mà chúng ta cố
diệt bằng thuốc trừ cỏ.
Hơn nữa, khi sử dụng hoá chất, thì các
thành tố khác trong hệ thống, ngoài lúa,
cũng bị ảnh hưởng. Ví dụ, cá trong hình
có vai trò rất quan trọng vì chúng ăn cỏ,
một số con húc vào thân cây lúa, làm cho
côn trùng rơi xuống để ăn. Ngoài ra, nông
dân trồng cả bèo tấm, giúp cố định đạm.
Những cây bèo tấm này không chỉ cung cấp
phân bón cho lúa, đỡ phải mua phân, mà còn
trở thành thức ăn cho vịt. Vịt thì cũng là
một thành tố trong hệ thống, cho thịt và
trứng.
Tóm lại, chúng ta phá vỡ một hệ thống bền
vững. Người nông dân này, khi sử dụng đa
dạng các thành tố: vịt, cá, cây trồng, cỏ
và nhiều thứ nữa, có một hệ thống nông
nghiệp tự cung tự cấp.
Đây chính là một mô hình
nông nghiệp sinh thái.
Nói đơn giản, là chúng ta tạo lập một
hệ thống với nhiều thành phần,
có khả năng phối hợp với nhau
nhằm tăng độ phì nhiều của đất, năng suất
cây trồng của hệ thống. Chúng ta không cần
bất cứ tài nguyên nào từ bên ngoài. Cái mà
chúng ta cần là rất nhiều kiến thức để tạo
lập và quản lý một hệ thống nhiều thành tố
Điều đáng buồn ở đây là những hệ thống
nông nghiệp sinh thái này bị phá huỷ bởi
nông nghiệp hiện đại.
Một xu hướng khác trong nông nghiệp là
nhiên liệu sinh học, hay nói cách khác là
một phương pháp nhân tạo hoá các quá trình
tự nhiên và tạo ra những hệ thống độc canh
khổng lồ.
Nguyên nhân mà người ta theo đuổi
hướng này,
đặc biệt là châu Âu và Mỹ
là vì họ buộc phải tăng cường sử dụng
nhiên liệu sinh học bởi vì ... các bạn
thấy ở đây ... châu Âu, Mỹ và OECD sử dụng
50% năng lượng trên toàn thế giới.
Các nước khác, khoảng 170 nước, chia nhau
50% còn lại.
Như thế có nghĩa là chúng ta cần một nguồn
nhiên liệu khác vì dầu mỏ đang ngày càng
đắt và khan hiếm và nhiên liệu thì ở trong
tay Maduro, hay Chavez, nói chung là
những người mà nước Mỹ không thích. Thế
là chúng ta phải tìm ra một nguồn nhiên
liệu khác, dạng lỏng mà không quá khác so
với dầu mỏ, một loại nhiên liệu mà có thể
sử dụng được cho ô tô, máy bay và các
phương tiện cơ giới như thế. Thế thì nó là
gì? Là nhiên liệu sinh học.
Có một sự thật là ở Mỹ và châu Âu không
đủ đất để trồng cây nguyên liệu phục vụ
sản xuất nhiên liệu sinh học.
Nếu đem toàn bộ diện tích đất trồng ngô ở
Mỹ ra sản xuất nhiên liệu sinh học
thì mới đáp ứng được 12% lượng cồn
mà cả nước cần.
Ở châu Âu, thì càng ít đất.
Thế thì phải trồng cây nguyên liệu ở đâu?
Ở châu Phi và Nam Mỹ.
Nói ngắn gọn, quy trình lấy đất
này gọi là cướp đất, diễn ra chủ yếu ở
châu Phi nơi mà nước ngoài và các công ty
tới thoả thuận với chính phủ các nước châu
Phi, mà ở châu Phi thì nhiều nước có tệ
tham nhũng.
Thế là như chúng ta thấy ở đây
có rất nhiều thoả thuận được thực hiện ở
nhiều nước châu Phi. Những nước tham gia
việc cướp đất này là Ả-rập Sau-đi, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ. Công ty của những
nước này nhảy vào châu Phi và chiếm hơn 80
triệu ha đất để sản xuất nhiên liệu sinh
học và một số loại cây công nghiệp như cao
su, gỗ, mà không sản phẩm nào để phục vụ
châu Phi. Họ trồng những cây này ở châu
Phi và mang sản phẩm đi.
Đây là một ví dụ của một công ty ở Sierra-
Leon. Người ta phá rừng và phá đi những
cộng đồng bản địa để độc canh - một hình
thức sản xuất gây tác động lớn tới hệ
sinh thái trái đất.
Những hệ thống nông nghiệp thế này sử dụng
80% đất trồng trên thế giới mà chỉ tạo ra
30% lượng lương thực, lại tiêu tốn 70%
lượng nước và 80% lượng nhiên liệu hoá
thạch. Như thế là rất kém hiệu quả vì sản
xuất nông nghiệp trên quy mô công nghiệp
không tập trung vào lương thực mà vào sinh
khối: nhiên liệu sinh học, chất dẻo sinh
học, thuốc sinh học - bất cứ cái gì có thể
làm được từ sinh khối.
Cách làm này chỉ tạo ra 30% lương thực
Nhưng tại sao chúng ta lại dính lấy nó và
còn nghĩ là nó hiệu quả, nó nuôi sống bao
người. Hoang đường!
Nạn đói trên thế giới thì cứ tiếp tục
trầm trọng hơn.
Mà lý do ở đây không phải là
không có đủ lương thực, mà là vì người
nghèo không có đủ tiền mua lương thực. 1/3
cho đến 2/3 dân số thế giới chỉ kiếm được
dưới 3 Đô-la mỗi ngày. Có nghĩa là khả
năng tiếp cận lương thực là một vấn đề lớn
và cả sự bất công nữa. Mỗi năm, mỗi người
vứt đi trung bình 115 kg lương thực, ở Mỹ
và châu Âu. Nếu chúng ta có thể mang
lượng lương thực đó sang châu Phi thì
chúng ta sẽ giải quyết được nạn đói ngay.
Thực ra nạn đói trên thế giới sinh ra là
do hệ thống sản xuất lương thực bị chi
phối bởi các tập đoàn, ví dụ những nhà
cung cấp hạt như ADM, Cargill. Họ là những
công ty công nghệ sinh học và siêu thị. Họ
là vua lương thực vì họ quyết định nhà sản
xuất trồng gì, bao nhiêu, bán cho ai,
dùng công nghệ nào, và quyết định cho cả
người tiêu dùng. Những siêu thị lớn quyết
định người tiêu dùng sẽ ăn gì, giá bao
nhiêu, chất lượng lương thực và nhờ đó họ
nắm toàn bộ hệ thống sản xuất lương thực
Thách thức cấp bách ở thế kỷ tới, cấp bách
vì tương lai đã ở ngay đây rồi, là phải
tăng cường sản xuất lương thực một cách
bền vững. Đó là điều kiện đủ, chứ không
phải điều kiện cần, mà cũng không phải là
giải pháp. Vấn đề là diện tích đất canh
tác ngày càng thu hẹp, chính xác hơn là
diện tích đất tốt dành cho canh tác ngày
càng thu hẹp, dầu mỏ ít đi, nước hiếm hơn,
Ni-tơ ít đi và phải đối mặt với biến đổi
khí hậu. Theo quan điểm nông nghiệp sinh
thái, thì thách thức này không thể vượt
qua nổi nếu chúng ta tiếp tục làm nông
nghiệp theo kiểu công nghiệp. Chúng ta
không cần công nghệ mới mà cần một ý thức
hệ mới. Đây chính là lúc phải sử dụng hệ
thống nông nghiệp mới. Những đặc điểm của
hệ thống nông nghiệp trong tương lai là:
không phụ thuộc vào năng lượng hoá thạch,
ít ảnh hưởng tới môi trường, thân thiện
với tự nhiên, chống chịu được với biến đổi
khỉ hậu, có nhiều chức năng - không chỉ
sản xuất ra lương thực mà cả phải đảm bảo
nhu cầu về xã hội, văn hoá, kinh tế và
là nền tảng của hệ thống nông nghiệp tại
chỗ. Trong 15 đến 20 năm tới, 75% dân số
sẽ sống ở thành thị,
và sẽ có khoảng 50 đô
thị trên 10 triệu dân trong 15 năm tới.
Những nơi đó cần nhập 6000 tấn lương thực
mỗi ngày từ khoảng cách 1000 km. Các bạn
có tưởng tượng được phải tốn bao nhiêu
năng lượng, lượng phát thải và cơ sở hạ
tầng thì mới đáp ứng được nhu cầu đó?
6000 tấn thực phẩm mỗi ngày!
Do đó, cái mà chúng ta cần là một nền nông
nghiệp năng suất cao, đa dạng, hiệu quả và
đây chính là điều có thể thực hiện được
nhờ nông nghiệp sinh thái. Trong hệ thống
này, nhờ sự đa dạng sinh học, các loài
động, thực vật tương tác với nhau nhằm
đảm bảo sự vận hành của cả hệ thống. Ở đây
sự tái chế được thực hiện ở mức cao nên
không phụ thuộc vào tài nguyên bên ngoài,
kể cả là tài nguyên hữu cơ, có chăng là
vào giai đoạn đầu khi chuyển đổi.
Những hệ thống này rất hiệu quả.
Vậy thì những hệ thống nông nghiệp như thế
ở đâu ra?
Thực ra là nhiều người ở các nước
đang phát triển đã làm
nông theo cách này cả 5000 năm rồi, qua
nhiều thế hệ. Ví dụ, ở dãy Andes, Trung Mỹ
như Mexico hay là vùng đất thấp Nam Mỹ
như Brazil, Colombia, ... Nếu các bạn
tới châu Phi hay châu Á thì các bạn sẽ
thấy nông dân đã làm cách này
từ 5000 năm trở lại đây.
Hiện nay có khoảng 1.5 tỉ
nông dân truyền thống, sản xuất trên 380
triệu nông trại với diện tích trung bình
là 2 ha.
Họ nắm trong tay 1.9 triệu loài
cây lương thực, nghĩa là họ có một tài
sản dồi dào về đa dạng di truyền.
Cách Mạng Xanh với bao nhiêu chất xám và
công nghệ
cũng chỉ tạo ra 7000 giống.
Và những người nông dân này mới là những
người đang nuôi sống thế giới. Họ sản xuất
ra 50-75% lương thực, tuỳ nước mà chỉ sử
dụng 23-30% diện tích đất, 30% lượng nước
và 20% lượng nhiên liệu hoá thạch.
Vậy, nếu chúng ta thực sự
muốn nuôi sống cả thế giới
thì sao không để cho những
người nông dân này quản lý đất đai? Họ
chỉ có 30% đất thôi, sao không để họ quản
lý 60% diện tích đất, thế là chúng ta giải
quyết được nạn đói ngay lập tức. Nhưng đây
là một vấn đề nhạy cảm về chính trị vì
tái quy hoạch đất và những thứ liên
quan.
Một vài ví dụ về hệ thống nông nghiệp
truyền thống, nếu các bạn tới Mexico City,
chỉ cách thành phố 20 km thôi, có một khu
vực được người Chinampas quản lý
hàng ngàn năm hay cũng khoảng 500 năm
trước khi người Tây Ban Nha tới.
Hệ thống này có thể nuôi 2 triệu người
thời còn các vua Aztec.
Hệ thống này gồm một con kênh, trong kênh
có cá, có cỏ và những cây cỏ này được sử
dùng để tái chế chất hữu cơ.
Họ luân canh phức tạp,
ví dụ: cúc vạn thọ trồng với
ngô - đậu - bí
và gặt hái nhiều lợi ích từ mô hình này
Họ trồng cả những cây
mà chúng ta lo diệt trừ ví dụ rau sam -
một cây quan trọng trong nền ẩm thực của
nông dân Mexico
Loài cây này chịu hạn rất tốt.
Có một điều thú vị là:
Người Chinampas có thể sản xuất đủ lương
thực cho 15 - 20 người trên 1 ha đất. Đây
là một hệ thống rất hiệu quả đã trải qua
thử thách của thời gian.
Người nông dân này đang quản lý một hệ
thống đa canh rất phức tạp. Nếu các bạn
tham quan hệ thống cà phê hay ca cao ở
Trung Mỹ, Colombia hay Mexico thì các
bạn sẽ thấy nông dân quản lý một hệ thống
tới 150 loài cây (thân gỗ)
và cà phê chỉ là một trong số đó.
Người nông dân này
đang tính xem khi nào thu hoạch thì phù
hợp, khi nào thì tỉa cây, khi nào thì làm
cái này cái kia, cho 150 loại cây, tức là
phải sử dụng một lượng kiến thức khổng lồ
về thực vật.
Người Milpa cũng thế, họ
không chỉ trồng ngô và đậu tương mà còn cả
ớt xen canh.
Đây đơn giản chỉ là cách họ
tự cung tự cấp.
Hệ thống này rất hiệu quả
về năng suất.
Khi tính toán sản lượng, cần tới
1.5 đơn vị diện tích độc canh
mới sản xuât được
cùng một lượng lương thực đa canh
vì đa canh cơ bản là hai hệ thống độc
canh chồng lên nhau và chúng sử dụng ánh
sáng, dinh dưỡng, nước hiệu quả hơn rất
nhiều.
Chỉ số hiệu quả sử dụng đất cho biết giá
trị hiệu quả của một hệ thống.
Đây là số liệu từ 170 nông hộ ở châu Phi:
tăng đa dạng sinh học nông trại tỉ lệ
thuận với tăng trưởng của các nguyên tố đa
lượng, khoáng và vitamin. Nhưng khi độc
canh, thì chỉ có một hệ thống không thiếu
tất cả khoáng chất và vitamin vì khi giảm
đa dạng sinh học
cũng là giảm giá trị dinh dưỡng.
Chúng ta có bằng chứng rõ ràng rằng
cứ tăng đa dạng sinh học
là cải thiện được dinh dưỡng.
Hơn nữa,
có một điều rất quan trọng là
nông trại nhỏ
năng suất hơn nông trại lớn.
Nông trại hàng ngàn ha mà chỉ
trồng ngô thì chỉ được 18 - 20 tấn/ha.
Nông trại nhỏ 1ha, thì ngoài 1ha ngô họ
còn có đậu, bí, gà, lấy trứng, vịt,
cái này cái kia,
cho nên tổng sản lượng...
Nếu lấy tổng sản lượng làm thước đo
cho năng suất của một hệ thống thì ...
Nhìn vào biểu đồ bên trái,
mỗi đường một nước
số liệu do FAO cung cấp, cứ
tăng diện tích thì giảm sản lượng. Tức là,
thực ra nông hộ nhỏ mới là phương pháp sản
xuất lương thực hiệu quả.
Nông nghiệp sinh thái là ngành khoa học
tổng hợp kiến thức từ sinh thái, khoa học
xã hội, nông học - như khoa học đất, côn
trùng học, ... cùng với kiến thức truyền
thống của người nông dân. Chúng ta tạo ra
một cuộc hội thoại về kiến thức mà từ đó
sinh ra các nguyên tắc.
Nông nghiệp sinh thái cũng giống như
Sinh thái học. Sinh thái học giải thích sự
vận hành của thiên nhiên,
hệ thống tun-dra cũng như hệ thống
rừng nhiệt đới có những nguyên tắc giống
nhau. Nông nghiệp sinh thái cũng vậy. Đó
là ngành khoa học với nhiều nguyên tắc
chung, giải thích sự vận hành của Nông
nghiệp và làm cách nào chúng ta có thể
xây dựng hệ thống nông nghiệp tương lai
Như đã nói, một trong những cách để nông
nghiệp khỏi phụ thuộc vào dầu mỏ...
Các bạn có thể tưởng tượng được ở Anh mà
xảy ra điều đã xảy ra ở Cu-ba năm 1998
khi tổng nhập khẩu dầu mỏ giảm
từ 77 xuống 63%?
Thế thì có mà sụp đổ toàn bộ
nền nông nghiệp.
Toàn bộ những nông trại lớn mà tôi
thấy trên đường đến đây sẽ không thể vận
hành nổi nếu thiếu dầu mỏ, phân bón và
thuốc BVTV.
Những gì đã xảy ra ở Cuba là
Liên Xô sụp đổ,
hai nước có quan hệ rất chặt chẽ hồi đó
Liên Xô viện trợ Cuba
Nông nghiệp Cuba theo kiểu Liên Xô,
tức là dùng máy cày lớn, thuốc BVTV,
phân bón, dầu mỏ, ...
Họ bị thay đổi một
cách đột ngột khi Liên Xô sụp đổ.
Điều thú vị ở đây là...
trên hình có một số cây
trồng chính, những thanh nhạt là sản lượng
của nông hộ nhỏ khi có
thuốc BVTV và phân bón
còn những thanh đậm là sản lượng
sau khi Liên Xô sụp đổ.
Những điều xảy ra ngay
lập tức lúc đó là hệ thống nông nghiệp quy
mô lớn sụp đổ và hệ thống nông nghiệp quy
mô nhỏ đã sản xuất được lượng lương thực
mà cả nước cần nhờ nông dân.
Từ đây các bạn có thể thấy
mức đóng góp của nông dân
cao hơn khi không có thuốc BVTV và phân bón.
Cách mà họ làm là sử
dụng kiến thức sinh thái
ví dụ như đa canh
luân canh, phân xanh, phân hữu cơ, tất cả
những phương pháp ứng dụng nguyên tắc của
nông nghiệp sinh thái.
Đây chỉ là ví dụ từ 1 nông dân.
Tôi muốn đưa 1 ví dụ ở Santo Spirito
Anh ấy bắt đầu làm nông như thế này.
Và đây là kết quả:
một nông trại 10 ha
gồm nhiều thành tố phức tạp, phục vụ nhiều
mục đích, luân canh cây lương thực và đồng
cỏ, ...
Đây là năng suất toàn hệ thống.
Anh ấy có thể sản xuất đủ protein cho 34
người trên 1ha trong 1 năm.
Hiệu quả sử dụng năng lượng
là quan trọng nhất:
30
Anh ấy đầu tư 1 Kcal và thu lại 30Kcal,
Không có hệ thống nông nghiệp nào có thể
hiệu quả hơn thế. Hệ thống nông nghiệp
quy mô công nghiệp hiệu quả nhất Mỹ có hệ
số 1.5. Tức là người nông dân này sản xuất
hiệu quả hơn tới 20 lần, nói về sinh thái,
so với các hệ thống nông nghiệp khác.
Một điều đáng chú ý khác khi nông dân phản
ứng lại với khủng hoảng
năm 1999, có một sự kiện đặc biệt,
có 216 nông dân thuộc
hội nông dân quy mô nhỏ quốc gia (Cuba)
sử dụng phương pháp nông nghiệp sinh thái
Sau 10 năm,
con số này tăng thành 110,000
thành viên.
Ngày nay chắc số thành viên là
130,000 đang thực hành nông nghiệp sinh
thái - phương pháp mà tôi đang trình bày.
Họ làm thế nào? Họ thực hiện một cuộc
cải cách tên là Campesino a Campesino.
Đây là một hệ
thống mạng lưới nông dân nhằm trao đổi
thông tin và kiến thức. Đây là một hiện
tượng văn hoá dựa trên một số quy tắc.
Đây là một bức vẽ, xin lỗi quý vị là thông
tin bằng tiếng Tây Ban Nha. Hình người này
gồm những nguyên tắc của chiến dịch kết
nối người - người.
Đây là một triết lý "rễ cỏ"
Hai chân thể hiện sáng tạo và
tự do.
Hai tay là sản xuất và bảo vệ.
Đôi mắt có tầm nhìn về sự bền vững.
Yêu thiên nhiên, gia đình,
nông nghiệp và cộng đồng
nơi trái tim
và lên tiếng cho quyền tự chủ về
lương thực.
(Quyền tự chủ về lương thực)
là một khái niệm mới mà
nông dân tạo ra thông qua chiến dịch
Campesino cách đây không lâu.
Những gì họ làm chỉ đơn giản là tụ họp lại
và nhờ một người giảng cho cộng đồng về
ví dụ như bảo tồn đất, hay phân xanh, hay
cách ủ phân và các phương pháp chọn lọc
hạt giống, rồi thực hiện một hoạt động có
tên "lai giống có sự tham gia" để cải
thiện một số giống địa phương. Thế là họ
có được những hạt giống cần thiết để thực
thi quyền tự chủ về lương thực.
Đây là một nông trại ở Cuba. Tôi không
biết các bạn có để ý là 2008 có 3 trận bão
ở Cuba, 1 là Ike và 2 trận nhỏ.
Có người
nói là Mỹ gây ra những trận bão này nhưng
ai biết được.
Té ra, ngay sau bão một nhóm
các nhà khoa học hợp tác với chúng tôi
thông qua một mạng lưới tên là SOCLA - Hội
nông nghiệp sinh thái Mỹ La-tin.
Bà Clara nhà tôi là chủ tịch.
Nhóm này tới kiểm tra
xem nông trại nào chống chịu được bão và
kết quả là nơi nào đa dạng, kết hợp chăn
nuôi, lâm nghiệp thì nơi đó chống chịu tốt
Đây là thiệt hại trung bình hợp tác xã -
72% nhưng mục 2 và 3 - đa dạng hơn thì ít
thiệt hại hơn. Họ có thiệt hại, tận 3 trận
bão cơ mà. Nhưng điều quan trọng nhất là
tốc độ phục hồi. Hệ thống 3 phục hồi năng
suất nhanh hơn hẳn, và nó là hệ thống đa
dạng hơn hệ thống 1 - một hệ thống đơn
giản hơn. Tính đàn hồi (của hệ thống) có
hai yếu tố. 1 là chống lại sự thay đổi và
2 là khả năng phục hồi.
Như nông trại Perla, Cuba, sau bão
Mitchell và nó đã phục hồi thế nào nhờ vào
nông nghiệp sinh thái. Rất nhanh!
Ở khu vực khác thuộc vùng nhiệt đới, đồng
cỏ được khuyến khích canh tác
bởi các trung tâm quốc
tế, các nhà nghiên cứu, các cơ quan và cả
giới công nghiệp. Ví dụ ở Colombia và
Mexico, chúng ta thấy diện tích độc canh
khổng lồ trồng cỏ đạt năng suất rất cao
khi được cung cấp nước và phân bón. Nếu
không có nước, như hệ thống tưới bằng nước
mưa thì thành thế này đây:
bò chết.
Hệ thống duy nhất có thể tồn tại là hệ
thống của dân quê, nơi mà độ ẩm được duy
trì, tiểu khí hậu thấp hơn 2 độ so với nơi
khác, độ ẩm cao, bò tạo ra phân bón - bổ
sung chất hữu cơ cho đất và tăng cường khả
năng giữ nước của đất...
Như chúng ta thấy ở hệ thống này:
lương mưa, và
đường
trên cùng là sản lượng sữa -
nó ổn định
mặc cho thay đổi về khí hậu. Đó chính là
sự đàn hồi. Một hệ thống có thể duy trì
được sản lượng của nó mà không bị ảnh
hưởng bởi lượng mưa.
Chúng ta thấy rằng cách làm nông nghiệp
sinh thái thông qua tăng cường sự đa dạng
của cảnh quan, sự đa dạng của thảm thực
vật, và phức tạp hơn là nông lâm kết hợp
rồi kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, ...
quản lý đất đai một cách hữu cơ,
và trữ nước, chúng ta có thể tạo ra một
hệ thống rất đàn hồi.
Ngoài ra có những nông dân đang phục hồi
đất đai bằng sinh thái phục hồi vì ...
Đây là Mixtec ở Mexico.
Đây là hậu quả của chăn nuôi quy mô lớn,
thả gia súc tràn lan, phá rừng ...
Có một vài nông dân, như các bạn thấy các
chấm xanh lục, họ muốn bám trụ ở đây.
Tương lai nào dành cho họ nếu họ rời đi?
Họ sẽ đến Mỹ để bị bóc lột sức lao động
hay ở Mexico City và cũng bị bóc lột?
Họ muốn ở lại.
Họ chọn ở lại nên họ bắt đầu, bằng bàn
tay, trồng lại rừng trên đỉnh núi, bằng
một loài thông bản địa, vì họ tin rằng
đây là nơi hút nước của ngọn núi.
Sau đó
họ thực hiện các biện pháp bảo tồn đất
với ruộng bậc thang,
đường thoát và lấy nước.
Không phải là ở đây không có mưa mà
ở đây chỉ mưa 2 tháng/ năm, thế thôi. Họ
phải trữ nước. Đây là việc rất quan trọng,
có thể làm được ở quy mô nông trại.
Dựa vào lượng nước có thể có, mà họ quyết
định diện tích canh tác để đảm bảo có đủ
nước tưới. Đây là một cánh đồng rau dền
được tưới nước. Đây thực ra là một loài
thực vật đang được phục hồi vì nó có hàm
lượng protein rất cao, 18%.
Khi người Tây Ban Nha tới,
họ nói rằng đây là cây tà
giáo và họ không thể dùng được, cấm trồng
và trồng lúa mì thay vào. Lúa mì không có
protein như dền.
Dân bản địa đang phải rất cố gắng
để phục hồi cây dền.
Đây là một ví dụ thú vị khác về phục hồi
một khu đất ở Colombia.
Năm 1992, 2001 và
hiện nay 2013, một lưu vực đã hoàn toàn
được phủ xanh, đủ khả năng hỗ trợ các hệ
thống đa canh.
Tôi không muốn gây hiểu lầm rằng nông
nghiệp sinh thái chỉ dành cho nông hộ nhỏ.
Tuy rằng hình thức này cực kỳ quan trọng
đặc biệt đối với nông dân những
nước đang phát triển
Đây là một ví dụ ở California,
một người nông dân hữu cơ
đa dạng hoá hệ thống của
mình. Họ trồng xà lách xen với hoa vì hoa
giúp thu hút các loài côn trùng có lợi và
thế là họ không phải phun thuốc hữu cơ.
Chế phẩm hữu cơ rất đắt vi cần
nhiều nguyên liệu đầu vào. Thế thì sao
không trồng hoa để thu hút côn trùng có
lợi để quản lý dịch hại?
Hay là, trồng tam giác mạch, hoặc allysum
trong vườn nho để thu hút côn trùng có lợi
Hoặc đa dạng hoá nông trại bằng những
"đảo" cây
làm nơi trú ngụ cho côn trùng có lợi
những loài côn trùng này sẽ tới vườn
nho để giúp quản lý dịch hại.
Hoặc trồng cây theo băng, nhiều nông dân
làm cách này để cơ giới hoá và sử dụng các
quy trình luân canh khác nhau, dùng các tổ
hợp cây trồng khác nhau trên mỗi băng để
giảm chi phí sản xuất và giảm tổn thất do
dịch hại....
Có rất nhiều ví dụ, như nông lâm kết hợp ở
Brazil, trồng nhiều loại cây thân gỗ để có
chỗ cho động vật nghỉ dưới tán, hoặc cây
lương thực, như đậu tương
giữa các hàng cây thân gỗ.
Khái niệm quyền tự chủ về lương thực mà
tôi trình bày lúc nãy là khái niệm mà
Campesina đã sử dụng. Nó có nghĩa là quyền
của cộng đồng, dù là cộng đồng nông dân,
thành thị, khu vực trong việc quyết định
hệ thống nông nghiệp của họ để ưu tiên
năng suất đầu tiên là cho nhu cầu nơi sở
tại và xuất bán những gì dư thừa.
Có 3 yếu tố, 1 là nông nghiệp sinh thái,
2 là cải cách xã hội,
3 là hỗ trợ của nhà nước
Có nghĩa là cải cách xã hội phải tạo
áp lực lên chính phủ và chính phủ phải có
trách nhiệm với nhu cầu của nông dân.
Ví dụ, ở Brazil, ở đây có người tới từ
Brazil, cải cách xã hội đã đi đến một kết
quả là hiện nay Brazil có luật nông nghiệp
sinh thái, với nguồn ngân sách là 3 tỉ Đô-
la.
Đó là kết quả của cải cách xã hội.
Số tiền đó sẽ được dùng để hỗ trợ và mở
rộng các hệ thống nông nghiệp sinh thái
toàn quốc.
Đây là cách họ tạo ra thay đổi
Không phải chỉ có 200 - 300 người mà hơn
1 triệu người đã dừng mọi hoạt động ở
Brasilia và thảo luận.
Nông nghiệp sinh thái đã trở thành một
vấn đề của cải cách xã hội.
Nằm trong tay các nhà cải cách xã hội
Đây có thể xem như khoa học quân sự.
Họ nói là sự kết hợp
của nông dân, nông trại gia đình và nông
nghiệp sinh thái có thể nuôi sống gia đính
thành phố và các quốc gia bằng năng suất
cao hơn, hiệu quả hơn, tự động hơn, tiết
kiệm hơn, ...
Tại sao nông nghiệp sinh thái phù hợp với
cải cách xã hội? Tại sao những nhà cải
cách xã hội thấy rằng nông nghiệp sinh
thái là phương pháp sẽ cung cấp kỹ thuật
và kiến thức khoa học để nâng cao quyền tự
chủ về lương thực?
Vì nó kích thích sự tham gia.
Nó hiệu quả về kinh tế - không
phụ thuộc tài nguyên bên ngoài.
Nó phù hợp về văn hoá - tôn trọng và
phát tán kiến thức truyền thống.
Nó lành mạnh về sinh thái - họ không muốn
thay đổi hệ thống mà muốn tối ưu hoá
Và nó cung cấp
nguyên tắc để đạt được quyền tự chủ về
lương thực.
Gần đây Campesina họp ở Mali và họ tuyên
bố rằng
họ thấy nông nghiệp sinh thái là
cách chính để chống lại
hệ thống kinh tế
đặt lợi ích lên trên cuộc sống
Và nông nghiệp sinh thái đặt trong hệ tư
tưởng về quyền tự chủ
về lương thực tạo ra giải pháp đồng bộ
để giải quyết hàng loạt những
khủng hoảng trên thế giới hiện nay.
Họ còn nói, giải pháp thực tiễn đối với
khí hậu, suy dinh dưỡng sẽ không thể được
tạo ra từ hệ thống quy mô công nghiệp.
Nên phải cải thiện nó.
Chúng ta cần một hệ thống mới
thực sự dựa vào sản xuất nông
nghiệp sinh thái ...
Như vậy, điều khó khăn là thay đổi các Vua
thực phẩm, và có rất nhiều hoạt động
về chủ đề này.
Ví dụ: cố gắng
ngăn Monsanto và các tập đoàn lớn kiểm
soát hệ thống sản xuất lương thực. Bên
cạnh đó, có một phương pháp khác, là đi
song song, trong đó nông dân tự quản lãnh
thổ và tự tạo hệ thống buôn bán địa phương
thật sự độc lập
Ví dụ, những nơi nông dân bán sản phẩm của
mình, nhiều sản phẩm hữu cơ hơn loại thông
thường vì có một mối quan hệ giữa người
bán và người mua và người mua hiểu rằng
ủng hộ nền nông nghiệp này không chỉ cho
họ thực phẩm sạch
mà, nghiên cứu đã chỉ ra
những thành phố bao quanh bởi nông dân quy
mô nhỏ
có ít vấn đề về bạo lực, nghiện ma tuý,
...
hơn khu vực bao quanh bởi các nông
trại lớn.
Thành phố bao quanh bởi các nông trại nhỏ
có nhiệt độ trung bình thấp hơn 5 độ so
với những thành phố bao quanh bởi
hệ thống độc canh lớn
Tức là có các lợi ích khác nữa mà mọi
người đang dần hiểu ra.
Một điều nữa là các cải cách của nông dân
coi nông nghiệp sinh thái là công cụ để
tranh luận, bảo vệ, xây dựng và cải tiến
khu vực nông thôn thành lãnh thổ.
Có một thay đổi lớn trong thời gian gần
đây, được thực hiện bằng nhiều cách khác
nhau. Khu vực độc lập nơi mà người dân
toàn quyền quyết định hình thức
sản xuất mà không bị chi phối bởi bất cứ
ai,
Điều này đôi khi
có thể được tạo ra qua bầu cử lãnh đạo
Có những nơi mà nông dân làm thị trưởng
và quyết định khu vực này không GMO, không
hoá chất, chúng ta sẽ làm nông nghiệp sinh
thái, chúng ta sẽ mua thực phẩm từ các
nông trại nhỏ cho trường học và bệnh viện
... Đó là 1 cách. Cách khác, thực hiện bởi
MST ở Brazil, họ cứ thế chiếm đất.
Có rất nhiều nước Nam Mỹ có luật
rằng
đất đai có chức năng xã hội.
Tức là nếu bạn có đất ở Nam
Mỹ mà không sử dụng thì đất đó sẽ được
giao cho người khác sản xuất.
Những khu vực như thế đang sinh sôi. Điều
này rất quan trọng và đáng mừng vì đó là
những khu dự trữ đa dạng sinh học, hạt
giống và cũng là những khu thí nghiệm về
quyền tự chủ trong lương thực. Người dân
tự bảo vệ mình khỏi những áp lực như thực
vật chuyển gen, độc canh, nhiên liệu sinh
học, thuốc BVTV ...
Cuối cùng, ta thấy nông nghiệp sinh thái
là nền móng cho các khu vực độc lập, để
đạt được quyền tự chủ về lương thực, tự
chủ về năng lượng và về công nghệ.
Các bạn có thể thấy
nhiều nông dân tự tạo ra nhiên
liệu sinh học không phải là đi chợ mua
mà làm ra nhiên liệu chạy máy kéo của
mình.
Sự tự chủ về công nghệ sinh ra từ
ứng dụng các nguyên tắc nông nghiệp sinh
thái vì khi dùng các
kỹ thuật nông nghiệp sinh thái
thì không cần các công nghệ bên ngoài,
không phải mua gì mà tự tạo được
các thứ nhờ vào những nguyên tắc đảm bảo
năng suất.
Tất cả những điều đó tất nhiên là sẽ dấn
đến sự đàn hồi trước thay đổi của khí hậu.
Có một số chương trình hợp pháp ủng hộ
nông nghiệp sinh thái là kết quả của sự
đấu tranh của mọi người, của các cải cách
xã hội.
Nhiều nước Mỹ La-tin, hầu hết là
những nước có chính phủ tiến bộ.
Như Ecuador có luật đa dạng nông nghiệp
nông nghiệp sinh thái và hạt giống.
Ở Ecuador, trồng cây chuyển gen là phạm pháp
Đó là cải thiện chính sách.
Brazil có luật quốc gia về nông nghiệp
sinh thái như tôi đã nói.
Nicaragua có luật hỗ trợ
mở rộng nông nghiệp sinh thái và hữu cơ.
Có các công cụ pháp chế để giải quyết áp
lực từ người dân và nay trở thành công cụ
để người dân thực hiện điều mình muốn.
Để kết thúc,
đây là một nghiên cứu ở ĐH
Michigan.
Bên trái là danh sách các loại cây trồng.
Họ tính chỉ số, và những số >1
có nghĩa là có thể tăng năng suất nhờ nông
nghiệp sinh thái.
Có sự khác biệt giữa các nước phát
triển và các nước đang phát triển
Ở các nước phát triển, hấu như
không có cây nào có chỉ số >1. Tức là theo
phân tích này, không có khả năng nâng cao
sản lượng bằng nông nghiệp sinh thái.
Còn ở các nước đang phát triển thì có.
Theo tôi, nguyên nhân ở đây là những nước
đang phát triển có
3 thứ mà những nước
phát triển thật tiếc là không có
đặc biệt, theo kinh nghiệm của tôi
là ở Mỹ.
1 - chúng ta không có triệu phú
kiến thức truyền thống.
2 - chúng ta không có hạt giống
vì 1.9 tỉ hạt giống mà tôi
nhắc đến ở các nước đang phát triển,
nhất là những trung tâm khởi nguyên.
3 - chúng ta không có cải cách xã hội.
Tôi với Clara đã đi nhiều nước châu Âu
như Tây Ban Nha, Bỉ, và ở đây - Anh.
Chúng tôi cũng vừa đi châu Phi dạy học
Một trong những điều ấn tượng ở
cải cách xã hội ở Mỹ Latin là chúng là
những cải cách đầy năng lượng ở vùng quê
đã tạo ra thay đổi.
Điều đó không tồn tại ở California.
Ví dụ, không có một cuộc đấu
tranh nào để đẩy mạnh lý tưởng này, một
cách mạnh mẽ, và có thể đối đầu với những
tập đoàn.
Đối với tôi thì có vẻ như nhiều
người hoài nghi về
tiềm năng của nông
nghiệp sinh thái ở châu Âu hay Mỹ.
Tôi nghĩ
nó không phụ thuộc nhiều vào kiến
thức và công nghệ mà vào việc tạo ra sự
vận động xã hội thật mạnh mẽ để có thể
thắng được lực cản
đang tồn tại trong xã hội.
Xin cảm ơn rất nhiều.
ĐH Schumacher
Một phần thuộc quỹ Dartington Hall